Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 21

Trường Bộ 21
Dīgha Nikāya 21

Kinh Đế Thích Sở Vấn
Sakkapañhasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn trú tại Magadha (Ma-kiệt-đà) phía Ðông thành Vương Xá (Rājagaha), tại làng Bà La Môn tên Ambasandā (Am-bà-la), trên ngọn núi Vediya (Tỳ-đà Sơn) phía Bắc ngôi làng, trong hang Indasāla (Nhân-đà-sa-la).
ekaṃ samayaṃ bhagavā magadhesu viharati, pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṃ.

Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka (Ðế-thích) náo nức muốn chiêm ngưỡng Thế Tôn.
Tena kho pana samayena sakkassa devānamindassa ussukkaṃ udapādi bhagavantaṃ dassanāya.

Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ:
Atha kho sakkassa devānamindassa etadahosi:

“Nay Thế Tôn ở tại chỗ nào, vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác?”
“kahaṃ nu kho bhagavā etarahi viharati arahaṃ sammāsambuddho”ti?

Thiên chủ Sakka thấy Thế Tôn trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá tại làng Bà La Môn tên Ambasandā, trên ngọn núi Vediya, phía Bắc ngôi làng trong hang Indasāla.
Addasā kho sakko devānamindo bhagavantaṃ magadhesu viharantaṃ pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṃ.

Thấy vậy, Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Disvāna deve tāvatiṃse āmantesi:

Này Quý vị, Thế Tôn trú ngụ tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasandā, trên ngọn núi Veidya, phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasāla.
“ayaṃ, mārisā, bhagavā magadhesu viharati, pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṃ.

Này quí vị, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
Yadi pana, mārisā, mayaṃ taṃ bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkameyyāma arahantaṃ sammāsambuddhan”ti?

Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên trả lời Thiên chủ Sakka.
“Evaṃ, bhaddantavā”ti kho devā tāvatiṃsā sakkassa devānamindassa paccassosuṃ.

Rồi Thiên chủ Sakka, nói với Pañcasikha (Ngũ Kế), con của Càn Thát Bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṃ gandhabbadevaputtaṃ āmantesi:

Này Khanh Pañcasikha, Thế Tôn nay trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasandā, trên ngọn núi Vediya phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasāla.
“ayaṃ, tāta pañcasikha, bhagavā magadhesu viharati pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṃ.

Này Khanh Pañcasikha, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác?
Yadi pana, tāta pañcasikha, mayaṃ taṃ bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkameyyāma arahantaṃ sammāsambuddhan”ti?

Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. Pañcasikha, con của Càn Thát Bà, vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đi theo Thiên chủ Sakka.
“Evaṃ, bhaddantavā”ti kho pañcasikho gandhabbadevaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā beluvapaṇḍuvīṇaṃ ādāya sakkassa devānamindassa anucariyaṃ upāgami.

Rồi Thiên chủ Sakka, với chư Thiên ở Tam thập tam thiên tháp tùng xung quanh, với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà đi trước—như người lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co lại cánh tay duỗi ra, biến mất ở cõi Tam thập tam thiên, hiện ra ở Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn Ambasandā và đứng trên núi Vediya, phía Bắc ngôi làng.
Atha kho sakko devānamindo devehi tāvatiṃsehi parivuto pañcasikhena gandhabbadevaputtena purakkhatoseyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—devesu tāvatiṃsesu antarahito magadhesu pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate paccuṭṭhāsi.

Lúc bấy giờ núi Vediya chói hào quang rực rỡ, ngôi làng Bà La Môn Ambasandā cũng vậy, đều nhờ thần lực chư Thiên.
Tena kho pana samayena vediyako pabbato atiriva obhāsajāto hoti ambasaṇḍā ca brāhmaṇagāmo yathā taṃ devānaṃ devānubhāvena.

Và dân chúng ở những làng xung quanh nói rằng:
Apissudaṃ parito gāmesu manussā evamāhaṃsu:

Núi Vediya hôm nay thật sự bị cháy, núi Veidya hôm nay thật sự có lửa đỏ rực, núi Vediya lại chói hào quang rực rỡ, làng Bà La Môn Ambasandā cũng vậy.
“ādittassu nāmajja vediyako pabbato jhāyatisu nāmajja vediyako pabbato jalatisu. Nāmajja vediyako pabbato. Kiṃsu nāmajja vediyako pabbato atiriva obhāsajāto ambasaṇḍā ca brāhmaṇagāmo”ti;

Và dân chúng lo âu, lông tóc dựng ngược.
saṃviggā lomahaṭṭhajātā ahesuṃ.

Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṃ gandhabbadevaputtaṃ āmantesi:

Này Khanh Pañcasikha, chư Như Lai thật khó lại gần đối với người như ta. Các Ngài nhập Thiền, hoan hỷ trong Thiền, và với mục đích ấy, an lặng tịnh cư.
“durupasaṅkamā kho, tāta pañcasikha, tathāgatā mādisena, jhāyī jhānaratā, tadantaraṃ paṭisallīnā.

Vậy Khanh Pañcasikha trước tiên làm cho Thế Tôn hoan hỷ, sau sự hoan hỷ do Khanh tác động, chúng ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
Yadi pana tvaṃ, tāta pañcasikha, bhagavantaṃ paṭhamaṃ pasādeyyāsi, tayā, tāta, paṭhamaṃ pasāditaṃ pacchā mayaṃ taṃ bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkameyyāma arahantaṃ sammāsambuddhan”ti.

Xin vâng, mong an lành đến với Ngài. Pañcasikha, con của Càn Thát Bà vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đến tại hang núi Indasāla. Khi đến xong, Pañcasikha đứng lại một bên và suy nghĩ:
“Evaṃ, bhaddantavā”ti kho pañcasikho gandhabbadevaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā beluvapaṇḍuvīṇaṃ ādāya yena indasālaguhā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā:

“Ta đứng đây, không quá xa Thế Tôn, cũng không quá gần. Và tiếng sẽ được Ngài nghe”.
“ettāvatā me bhagavā neva atidūre bhavissati nāccāsanne, saddañca me sossatī”ti—ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Ðứng một bên, Pañcasikha, con của Càn Thát Bà gảy cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục:
Ekamantaṃ ṭhito kho pañcasikho gandhabbadevaputto beluvapaṇḍuvīṇaṃ assāvesi, imā ca gāthā abhāsi buddhūpasañhitā dhammūpasañhitā saṅghūpasañhitā arahantūpasañhitā kāmūpasañhitā:

“Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Nguồn hạnh phúc của ta.
“Vande te pitaraṃ bhadde,
timbaruṃ sūriyavacchase;
Yena jātāsi kalyāṇī,
ānandajananī mama.

Như gió cho kẻ mệt,
Như nước cho kẻ khát;
Nàng, ánh sáng đời ta,
Như pháp bậc Ứng Cúng.
Vātova sedataṃ kanto,
pānīyaṃva pipāsato;
Aṅgīrasi piyāmesi,
dhammo arahatāmiva.

Như thuốc cho kẻ bệnh,
Thức ăn cho kẻ đói;
Nàng như dòng nước mát,
Dập tắt lửa thiêu ta.
Āturasseva bhesajjaṃ,
bhojanaṃva jighacchato;
Parinibbāpaya maṃ bhadde,
jalantamiva vārinā.

Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ sen mát;
Có cánh sen, nhụy sen;
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Sītodakaṃ pokkharaṇiṃ,
yuttaṃ kiñjakkhareṇunā;
Nāgo ghammābhitattova,
ogāhe te thanūdaraṃ.

Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn;
Ta không hiểu nguyên do,
Thân thon thả của nàng,
Làm cho ta điên đảo!
Cảm xúc ta điên cuồng,
Tâm ta bị thay đổi,
Không thể quay trở lại,
Như cá đã mắc câu.
Accaṅkusova nāgova,
jitaṃ me tuttatomaraṃ;
Kāraṇaṃ nappajānāmi,
sammatto lakkhaṇūruyā!
Tayi gedhitacittosmi,
cittaṃ vipariṇāmitaṃ;
Paṭigantuṃ na sakkomi,
vaṅkaghastova ambujo.

Hiền nữ hãy ôm ta,
Với cặp đùi quyến rủ!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền;
Thiện nữ hãy ôm ta,
Là những gì ta muốn.
Vāmūru saja maṃ bhadde,
saja maṃ mandalocane;
Palissaja maṃ kalyāṇi,
etaṃ me abhipatthitaṃ.

Mong ước thật nhỏ nhoi!
Ôi Hiền nữ tóc xoăn,
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Appako vata me santo,
kāmo vellitakesiyā;
Anekabhāvo samuppādi,
arahanteva dakkhiṇā.

Mọi công đức ta làm,
Dâng bậc A-La-Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Yaṃ me atthi kataṃ puññaṃ,
arahantesu tādisu;
Taṃ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṃ vipaccataṃ.

Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Yaṃ me atthi kataṃ puññaṃ,
asmiṃ pathavimaṇḍale;
Taṃ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṃ vipaccataṃ.

Vị Thích tử tu thiền,
Nhất tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Ôi Suriya Vaccasa!
Sakyaputtova jhānena,
ekodi nipako sato;
Amataṃ muni jigīsāno,
tamahaṃ sūriyavacchase.

Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng;
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược chung đôi với nàng,
Yathāpi muni nandeyya,
patvā sambodhimuttamaṃ;
Evaṃ nandeyyaṃ kalyāṇi,
missībhāvaṃ gato tayā.

Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Chúa cõi tam thập tam,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Sakko ce me varaṃ dajjā,
tāvatiṃsānamissaro;
Tāhaṃ bhadde vareyyāhe,
evaṃ kāmo daḷho mama.

Như Sāla nở hoa,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!”
Sālaṃva na ciraṃ phullaṃ,
pitaraṃ te sumedhase;
Vandamāno namassāmi,
yassāsetādisī pajā”ti.

Khi được nghe vậy, Thế Tôn nói với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà:
Evaṃ vutte, bhagavā pañcasikhaṃ gandhabbadevaputtaṃ etadavoca:

Này Pañcasikha, huyền âm của Ngươi khéo hòa điệu với giọng ca của Ngươi, và giọng ca của Ngươi khéo hòa điệu với huyền âm của Ngươi.
“saṃsandati kho te, pañcasikha, tantissaro gītassarena, gītassaro ca tantissarena;

Này Pañcasikha, do vậy huyền âm của Ngươi không thêm mầu sắc cho giọng ca, hay giọng ca của Ngươi không thêm màu sắc cho huyền âm của Ngươi.
na ca pana te, pañcasikha, tantissaro gītassaraṃ ativattati, gītassaro ca tantissaraṃ.

Này Pañcasikha, Ngươi học tại chỗ nào những bài kệ liên hệ đến Phật, Pháp, đến A La Hán, đến ái dục như vậy?
Kadā saṃyūḷhā pana te, pañcasikha, imā gāthā buddhūpasañhitā dhammūpasañhitā saṅghūpasañhitā arahantūpasañhitā kāmūpasañhitā”ti?

Bạch Thế Tôn, một thời Thế Tôn an trú ở Uruvelā, bên bờ sông Nerañjarā (Ni-liên-thiền), dưới gốc cây Ajapāla-Nigrodha, khi mới thành Chánh Ðẳng Giác.
“Ekamidaṃ, bhante, samayaṃ bhagavā uruvelāyaṃ viharati najjā nerañjarāya tīre ajapālanigrodhe paṭhamābhisambuddho.

Lúc bấy giờ, con yêu con gái của Timbaru, vua Càn Thát Bà, tên là Bhaddā với biệt hiệu Suriyavacchasā.
Tena kho panāhaṃ, bhante, samayena bhaddā nāma sūriyavacchasā timbaruno gandhabbarañño dhītā, tamabhikaṅkhāmi.

Nhưng bạch Thế Tôn, thiếu nữ lại yêu một người khác — tên là Sikhaḍḍī, con của Mātali người đánh xe.
Sā kho pana, bhante, bhaginī parakāminī hoti;— sikhaṇḍī nāma mātalissa saṅgāhakassa putto, tamabhikaṅkhati.

Bạch Thế Tôn, con không có phương tiện nào khác để chiếm được thiếu nữ.
Yato kho ahaṃ, bhante, taṃ bhaginiṃ nālatthaṃ kenaci pariyāyena.

Con cầm đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva, đến tại trú xá của Timbaru, vua Càn Thát Bà. Khi đến xong, con gảy đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ này, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục —
Athāhaṃ beluvapaṇḍuvīṇaṃ ādāya yena timbaruno gandhabbarañño nivesanaṃ tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā beluvapaṇḍuvīṇaṃ assāvesiṃ, imā ca gāthā abhāsiṃ buddhūpasañhitā dhammūpasañhitā saṅghūpasañhitā arahantūpasañhitā kāmūpasañhitā—

“Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Nguồn hạnh phúc của ta.
“Vande te pitaraṃ bhadde,
timbaruṃ sūriyavacchase;
Yena jātāsi kalyāṇī,
ānandajananī mama.

Như gió cho kẻ mệt,
Như nước cho kẻ khát;
Nàng, ánh sáng đời ta,
Như pháp bậc Ứng Cúng.
Vātova sedataṃ kanto,
pānīyaṃva pipāsato;
Aṅgīrasi piyāmesi,
dhammo arahatāmiva.

Như thuốc cho kẻ bệnh,
Thức ăn cho kẻ đói;
Nàng như dòng nước mát,
Dập tắt lửa thiêu ta.
Āturasseva bhesajjaṃ,
bhojanaṃva jighacchato;
Parinibbāpaya maṃ bhadde,
jalantamiva vārinā.

Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ sen mát;
Có cánh sen, nhụy sen;
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Sītodakaṃ pokkharaṇiṃ,
yuttaṃ kiñjakkhareṇunā;
Nāgo ghammābhitattova,
ogāhe te thanūdaraṃ.

Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn;
Ta không hiểu nguyên do,
Thân thon thả của nàng,
Làm cho ta điên đảo!
Cảm xúc ta điên cuồng,
Tâm ta bị thay đổi,
Không thể quay trở lại,
Như cá đã mắc câu.
Accaṅkusova nāgova,
jitaṃ me tuttatomaraṃ;
Kāraṇaṃ nappajānāmi,
sammatto lakkhaṇūruyā!
Tayi gedhitacittosmi,
cittaṃ vipariṇāmitaṃ;
Paṭigantuṃ na sakkomi,
vaṅkaghastova ambujo.

Hiền nữ hãy ôm ta,
Với cặp đùi quyến rủ!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền;
Thiện nữ hãy ôm ta,
Là những gì ta muốn.
Vāmūru saja maṃ bhadde,
saja maṃ mandalocane;
Palissaja maṃ kalyāṇi,
etaṃ me abhipatthitaṃ.

Mong ước thật nhỏ nhoi!
Ôi Hiền nữ tóc xoăn,
Nhưng nay đã tăng bội,
Như hội chúng La Hán!
Appako vata me santo,
kāmo vellitakesiyā;
Anekabhāvo samuppādi,
arahanteva dakkhiṇā.

Mọi công đức ta làm,
Dâng bậc A-La-Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Yaṃ me atthi kataṃ puññaṃ,
arahantesu tādisu;
Taṃ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṃ vipaccataṃ.

Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Yaṃ me atthi kataṃ puññaṃ,
asmiṃ pathavimaṇḍale;
Taṃ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṃ vipaccataṃ.

Vị Thích tử tu thiền,
Nhất tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Ôi Suriya Vaccasa!
Sakyaputtova jhānena,
ekodi nipako sato;
Amataṃ muni jigīsāno,
tamahaṃ sūriyavacchase.

Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng;
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược chung đôi với nàng.
Yathāpi muni nandeyya,
patvā sambodhimuttamaṃ;
Evaṃ nandeyyaṃ kalyāṇi,
missībhāvaṃ gato tayā.

Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Chúa cõi tam thập tam,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Sakko ce me varaṃ dajjā,
tāvatiṃsānamissaro;
Tāhaṃ bhadde vareyyāhe,
evaṃ kāmo daḷho mama.

Như Sāla nở hoa,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!”
Sālaṃva na ciraṃ phullaṃ,
pitaraṃ te sumedhase;
Vandamāno namassāmi,
yassāsetādisī pajā”ti.

Bạch Thế Tôn, sau khi nghe nói vậy, Bhaddā Suriyavacchasā nói với con như sau:
Evaṃ vutte, bhante, bhaddā sūriyavacchasā maṃ etadavoca:

“Này Hiền giả, tôi chưa được thấy Thế Tôn tận mặt. Nhưng tôi có nghe đến Thế Tôn, khi tôi đến múa tại Thiện Pháp đường của chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
‘na kho me, mārisa, so bhagavā sammukhā diṭṭho, api ca sutoyeva me so bhagavā devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sudhammāyaṃ sabhāyaṃ upanaccantiyā.

Vì Hiền giả đã tán dương Thế Tôn như vậy, vậy hôm nay chúng ta sẽ gặp nhau”.
Yato kho tvaṃ, mārisa, taṃ bhagavantaṃ kittesi, hotu no ajja samāgamo’ti.

Bạch Thế Tôn, rồi con được gặp nàng. Không phải hôm ấy, nhưng về sau.”
Soyeva no, bhante, tassā bhaginiyā saddhiṃ samāgamo ahosi. Na ca dāni tato pacchā”ti.

Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ như sau:
Atha kho sakkassa devānamindassa etadahosi:

“Pañcasikha, con của Càn Thát Bà hoan hỷ đàm luận với Thế Tôn. Và Thế Tôn đối với Pancasikha cũng vậy”.
“paṭisammodati pañcasikho gandhabbadevaputto bhagavatā, bhagavā ca pañcasikhenā”ti.

Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṃ gandhabbadevaputtaṃ āmantesi:

Này Khanh Pañcasikha, hãy thay mặt ta, đảnh lễ Thế Tôn và nói:
“abhivādehi me tvaṃ, tāta pañcasikha, bhagavantaṃ:

“Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn”.
‘sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī’”ti.

Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. Pañcasikha, con của Càn Thát Bà vâng theo lời dặn của Thiên chủ Sakka, đảnh lễ Thế Tôn và nói:
“Evaṃ, bhaddantavā”ti kho pañcasikho gandhabbadevaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā bhagavantaṃ abhivādeti:

Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ, đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn.
“sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī”ti.

Này Pañcasikha, mong hạnh phúc đến với Thiên chủ Sakka, với các đình thần và các thuộc hạ!
“Evaṃ sukhī hotu, pañcasikha, sakko devānamindo sāmacco saparijano;

Chư Thiên, loài Người, Asurā, Nāgā, Gandhabbā, đều ao ước hạnh phúc. Các loại chúng sanh khác cũng vậy.
sukhakāmā hi devā manussā asurā nāgā gandhabbā ye caññe santi puthukāyā”ti.

Như vậy, các Như Lai chào đón thượng chúng.
Evañca pana tathāgatā evarūpe mahesakkhe yakkhe abhivadanti.

Ðược chào đón như vậy, Thiên chủ Sakka bước vào hang Indasāla của Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên.
Abhivadito sakko devānamindo bhagavato indasālaguhaṃ pavisitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Chư Thiên ở Tam thập tam thiên cũng bước vào hang Indasāla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Devāpi tāvatiṃsā indasālaguhaṃ pavisitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

Pañcasikha, con của Càn Thát Bà cũng bước vào hang Indasāla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Pañcasikhopi gandhabbadevaputto indasālaguhaṃ pavisitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Lúc bấy giờ, trong hang Indasāla, những con đường gồ ghề được làm bằng phẳng, những khoảng chật hẹp được làm cho rộng rãi, trong hang tối tăm có hào quang chiếu sáng, đó là nhờ thần lực của chư Thiên.
Tena kho pana samayena indasālaguhā visamā santī samā samapādi, sambādhā santī urundā samapādi, andhakāro guhāyaṃ antaradhāyi, āloko udapādi yathā taṃ devānaṃ devānubhāvena.

Rồi Thế Tôn nói với Thiên chủ Sakka:
Atha kho bhagavā sakkaṃ devānamindaṃ etadavoca:

Thật là hy hữu, Ðại đức Kosiya! Thật là kỳ diệu, Ðại đức Kosiya, tuy có nhiều trách nhiệm phải gánh vác, có nhiều công tác phải làm, mà vẫn đến đây được!
“acchariyamidaṃ āyasmato kosiyassa, abbhutamidaṃ āyasmato kosiyassa tāva bahukiccassa bahukaraṇīyassa yadidaṃ idhāgamanan”ti.

Bạch Thế Tôn, đã từ lâu con muốn đến để yết kiến Thế Tôn, nhưng bị ngăn trở bởi các công việc này, công việc khác phải làm cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên, và do vậy không thể đến yết kiến Thế Tôn được.
“Cirapaṭikāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamitukāmo; api ca devānaṃ tāvatiṃsānaṃ kehici kehici kiccakaraṇīyehi byāvaṭo; evāhaṃ nāsakkhiṃ bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamituṃ.

Bạch Thế Tôn, một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá Vệ), tại cốc Salaḷā.
Ekamidaṃ, bhante, samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati salaḷāgārake.

Bạch Thế Tôn, rồi con đến Sāvatthī để yết kiến Thế Tôn.
Atha khvāhaṃ, bhante, sāvatthiṃ agamāsiṃ bhagavantaṃ dassanāya.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi nhập định và Bhūjati, vợ của Vessavaṇa đang đứng hầu Thế Tôn, đảnh lễ chắp tay.
Tena kho pana, bhante, samayena bhagavā aññatarena samādhinā nisinno hoti, bhūjati ca nāma vessavaṇassa mahārājassa paricārikā bhagavantaṃ paccupaṭṭhitā hoti, pañjalikā namassamānā tiṭṭhati.

Bạch Thế Tôn, rồi con nói với Bhūjati:
Atha khvāhaṃ, bhante, bhūjatiṃ etadavocaṃ:

Này Hiền tỷ, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa:
‘abhivādehi me tvaṃ, bhagini, bhagavantaṃ:

“Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn”.
“sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī”’ti.

Ðược nghe nói vậy, Bhūjati nói với con:
Evaṃ vutte, bhante, sā bhūjati maṃ etadavoca:

Thiện hữu, nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn.
‘akālo kho, mārisa, bhagavantaṃ dassanāya;

Thế Tôn đang yên lặng tịnh cư.
paṭisallīno bhagavā’ti.

Này Hiền tỷ, khi nào xuất định, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa:
‘Tena hi, bhagini, yadā bhagavā tamhā samādhimhā vuṭṭhito hoti, atha mama vacanena bhagavantaṃ abhivādehi:

“Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn”.
“sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī”’ti.

Bạch Thế Tôn, không hiểu Bhūjati có thay mặt con đảnh lễ Thế Tôn không?
Kacci me sā, bhante, bhaginī bhagavantaṃ abhivādesi?

Thế Tôn có nhớ lời bà ấy nói không?
Sarati bhagavā tassā bhaginiyā vacanan”ti?

Này Thiên chủ, bà ấy có đảnh lễ Ta. Ta có nhớ lời bà ấy nói.
“Abhivādesi maṃ sā, devānaminda, bhaginī, sarāmahaṃ tassā bhaginiyā vacanaṃ.

Chính tiếng bánh xe của Ngài đã khiến Ta xuất định.
Api cāhaṃ āyasmato nemisaddena tamhā samādhimhā vuṭṭhito”ti.

Bạch Thế Tôn, có chư Thiên được sanh lên Tam thập tam thiên trước chúng con, chính chúng con tận mắt được nghe chư Thiên ấy nói như sau:
“Ye te, bhante, devā amhehi paṭhamataraṃ tāvatiṃsakāyaṃ upapannā, tesaṃ me sammukhā sutaṃ sammukhā paṭiggahitaṃ:

“Khi Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, Thiên giới được hưng thịnh và Asurā giới bị suy vong”.
‘yadā tathāgatā loke uppajjanti arahanto sammāsambuddhā, dibbā kāyā paripūrenti, hāyanti asurakāyā’ti.

Bạch Thế Tôn, chính con có thể thấy và xác chứng rằng khi nào Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, thì Thiên giới được hưng thịnh và Asurā giới bị suy vong.
Taṃ me idaṃ, bhante, sakkhidiṭṭhaṃ yato tathāgato loke uppanno arahaṃ sammāsambuddho, dibbā kāyā paripūrenti, hāyanti asurakāyāti.

Bạch Thế Tôn ở đây, tại Kapilavatthu, có Thích nữ tên là Gopikā, có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và gìn giữ đầy đủ giới luật.
Idheva, bhante, kapilavatthusmiṃ gopikā nāma sakyadhītā ahosi buddhe pasannā dhamme pasannā saṅghe pasannā sīlesu paripūrakārinī.

Thích nữ này, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, khi thân hoại mạng chung được sanh lên Thiên giới, thiện thú. Nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, sanh ra làm con của chúng con.
Sā itthittaṃ virājetvā purisattaṃ bhāvetvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā. Devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ amhākaṃ puttattaṃ ajjhupagatā.

Và ở đấy, nàng được gọi là Thiên tử Gopakā, Thiên tử Gopakā.
Tatrapi naṃ evaṃ jānanti: ‘gopako devaputto, gopako devaputto’ti.

Bạch Thế Tôn, lại có ba Tỷ Kheo khác sống phạm hạnh với Thế Tôn và sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng.
Aññepi, bhante, tayo bhikkhū bhagavati brahmacariyaṃ caritvā hīnaṃ gandhabbakāyaṃ upapannā.

Họ sống được bao vây thọ hưởng năm món dục tăng thịnh và thường hay đến hầu hạ săn sóc chúng con.
Te pañcahi kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricārayamānā amhākaṃ upaṭṭhānaṃ āgacchanti amhākaṃ pāricariyaṃ.

Chúng con được họ đến hầu hạ và săn sóc chúng con như vậy, Thiên tử Gopakā mới trách la họ như sau:
Te amhākaṃ upaṭṭhānaṃ āgate amhākaṃ pāricariyaṃ gopako devaputto paṭicodesi:

“Chư Thiện hữu, tai các Người ở đâu mà không nghe Pháp của Thế Tôn!
‘kutomukhā nāma tumhe, mārisā, tassa bhagavato dhammaṃ assuttha—

Chính ta xưa là đàn bà, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, gìn giữ giới luật, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, làm con của Thiên chủ Sakka.
ahañhi nāma itthikā samānā buddhe pasannā dhamme pasannā saṅghe pasannā sīlesu paripūrakārinī itthittaṃ virājetvā purisattaṃ bhāvetvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā, devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ sakkassa devānamindassa puttattaṃ ajjhupagatā.

Họ gọi ta là:
Idhāpi maṃ evaṃ jānanti:

Thiên tử Gopakā.
“gopako devaputto gopako devaputto”ti.

Chư Thiện hữu, các Người tu hành phạm hạnh với Thế Tôn, được sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng.
Tumhe pana, mārisā, bhagavati brahmacariyaṃ caritvā hīnaṃ gandhabbakāyaṃ upapannā.

Thật là điều không mấy tốt đẹp, khi chúng con thấy những vị đồng môn lại phải sanh vào hạ đẳng Càn Thát Bà giới.
Duddiṭṭharūpaṃ vata bho addasāma, ye mayaṃ addasāma sahadhammike hīnaṃ gandhabbakāyaṃ upapanne’ti.

Bạch Thế Tôn, trong chư Thiên bị Thiên tử Gopakā trách mắng như vậy, hai vị Thiên, ngay trong hiện tại, chứng được chánh niệm và sanh làm phụ tá cho Phạm thiên. Còn một vị Thiên sống thọ hưởng dục lạc.
Tesaṃ, bhante, gopakena devaputtena paṭicoditānaṃ dve devā diṭṭheva dhamme satiṃ paṭilabhiṃsu kāyaṃ brahmapurohitaṃ, eko pana devo kāme ajjhāvasi.

‘Ta đệ tử pháp nhãn,
Tên gọi Gopikā;
Ta tin Phật và Pháp,
Ta hết lòng độ Tăng.
‘Upāsikā cakkhumato ahosiṃ,
Nāmampi mayhaṃ ahu “gopikā”ti;
Buddhe ca dhamme ca abhippasannā,
Saṅghañcupaṭṭhāsiṃ pasannacittā.

Nhờ giáo pháp toàn hảo,
Nay con trai Vua Sakka;
Tái sanh cõi tam thập tam,
Tên gọi Gopakā.
Tasseva buddhassa sudhammatāya,
Sakkassa puttomhi mahānubhāvo;
Mahājutīko tidivūpapanno,
Jānanti maṃ idhāpi “gopako”ti.

Nhìn các tỷ kheo ấy,
Hạ sanh Càn Thát Bà! (Gandhabba);
Trước ta sanh làm Người,
Họ đệ tử Cồ Đàm (Gotama).
Athaddasaṃ bhikkhavo diṭṭhapubbe,
Gandhabbakāyūpagate vasīne;
Imehi te gotamasāvakāse,
Ye ca mayaṃ pubbe manussabhūtā.

Ta cúng dường ẩm thực,
Hầu hạ trú xứ ta;
Mắt hiền giả ở đâu,
Không nắm giữ Pháp Phật.
Annena pānena upaṭṭhahimhā,
Pādūpasaṅgayha sake nivesane;
Kutomukhā nāma ime bhavanto,
Buddhassa dhammāni paṭiggahesuṃ.

Chánh pháp tự giác hiểu,
Bậc Pháp nhãn khéo giảng;
Ta chỉ hầu Quý vị,
Được nghe Pháp bậc Thánh.
Paccattaṃ veditabbo hi dhammo,
Sudesito cakkhumatānubuddho;
Ahañhi tumheva upāsamāno,
Sutvāna ariyāna subhāsitāni.

Nay con trai Vua Sakka,
Tái sanh cõi tam thập tam;
Các người hầu Bậc tối thắng,
Sống phạm hạnh tối thượng.
Sakkassa puttomhi mahānubhāvo,
Mahājutīko tidivūpapanno;
Tumhe pana seṭṭhamupāsamānā,
Anuttaraṃ brahmacariyaṃ caritvā.

Nay phải sanh cõi thấp,
Tái sanh không thích đáng;
Tiếc thay ta đã thấy,
Đồng đạo sanh cõi thấp.
Hīnaṃ kāyaṃ upapannā bhavanto,
Anānulomā bhavatūpapatti;
Duddiṭṭharūpaṃ vata addasāma,
Sahadhammike hīnakāyūpapanne.

Với thân Càn Thát Bà,
Phải hầu hạ chư Thiên;
Từ địa vị cư sĩ,
Ta thấy rõ khác biệt.
Gandhabbakāyūpagatā bhavanto,
Devānamāgacchatha pāricariyaṃ;
Agāre vasato mayhaṃ,
Imaṃ passa visesataṃ.

Trước bà, nay Thiên nam,
Ta sanh Thiên, hưởng dục’;
Đệ tử Cồ-Đàm trách,
Hiểu lời Gopakā,
Họ ưu phiền phát nguyện.
Itthī hutvā svajja pumomhi devo,
Dibbehi kāmehi samaṅgibhūto’;
Te coditā gotamasāvakena,
Saṃvegamāpādu samecca gopakaṃ.

‘Phải thăng tiến nỗ lực,
Không nô lệ cho ai;’
Hai trong ba vị này,
Bắt đầu hành tinh tấn,
Nhờ Gotama dạy.
‘Handa viyāyāma byāyāma,
Mā no mayaṃ parapessā ahumhā’;
Tesaṃ duve vīriyamārabhiṃsu,
Anussaraṃ gotamasāsanāni.

Chúng tẩy sạch tâm uế,
Thấy nguy hiểm dục vọng;
Vứt bỏ dục kiết sử,
Quỷ triền phược khó vượt.
Idheva cittāni virājayitvā,
Kāmesu ādīnavamaddasaṃsu;
Te kāmasaṃyojanabandhanāni,
Pāpimayogāni duraccayāni.

Như voi bỏ dây cương,
Các vị vượt Tam thiên;
Cùng Sakka, Pajāpati,
Hội chúng Thiện Pháp đường.
Nāgova sannāni guṇāni chetvā,
Deve tāvatiṃse atikkamiṃsu;
Saindā devā sapajāpatikā,
Sabbe sudhammāya sabhāyupaviṭṭhā.

Vượt quá vị đang ngồi,
Anh hùng ly dục cấu;
Thấy họ, Vāsava ưu phiền,
Giữa Thiên chúng, than rằng.
Tesaṃ nisinnānaṃ abhikkamiṃsu,
Vīrā virāgā virajaṃ karontā;
Te disvā saṃvegamakāsi vāsavo,
Devābhibhū devagaṇassa majjhe.

‘Xem chúng sinh hạ phẩm,
Nay vượt qua Tam thiên’;
Suy tư lời ưu phiền,
Gopakā nói Vāsava:
‘Imehi te hīnakāyūpapannā,
Deve tāvatiṃse abhikkamanti’;
Saṃvegajātassa vaco nisamma,
So gopako vāsavamajjhabhāsi.

‘Đức Phật ở nhân giới,
Được gọi là Thích Ca,
Ðã chinh phục dục vọng;
Chúng là con của Ngài,
Thất niệm khi mệnh chung,
Nhờ Ta lấy chánh niệm.’
‘Buddho janindatthi manussaloke,
Kāmābhibhū sakyamunīti ñāyati;
Tasseva te puttā satiyā vihīnā,
Coditā mayā te satimajjhalatthuṃ’.

Một trong ba vị ấy,
Mang thân Càn Thát Bà;
Hai vị hướng Chánh giác,
Bỏ Thiên giới, nhập thiền.’
Tiṇṇaṃ tesaṃ āvasinettha eko,
Gandhabbakāyūpagato vasīno;
Dve ca sambodhipathānusārino,
Devepi hīḷenti samāhitattā.

Giáo pháp giảng như vậy,
Ðừng đệ tử nào nghi;
Chúng ta đảnh lễ Phật,
Vị vượt khỏi bộc lưu,
Ðã diệt trừ nghi ngờ.
Etādisī dhammappakāsanettha,
Na tattha kiṅkaṅkhati koci sāvako;
Nitiṇṇaoghaṃ vicikicchachinnaṃ,
Buddhaṃ namassāma jinaṃ janindaṃ.

Chính ở đây, chứng pháp,
Tấn bước đạt thù thắng;
Hai vị đạt thắng vị,
Hơn phụ tá Phạm thiên.
Yaṃ te dhammaṃ idhaññāya,
visesaṃ ajjhagaṃsu te;
Kāyaṃ brahmapurohitaṃ,
duve tesaṃ visesagū.

Ôi Thiện hữu chúng tôi,
Ðến đây để chứng pháp;
Nếu Thế Tôn cho phép,
Chúng con hỏi Thế Tôn.”
Tassa dhammassa pattiyā,
āgatamhāsi mārisa;
Katāvakāsā bhagavatā,
pañhaṃ pucchemu mārisā”ti.

Rồi Thế Tôn suy nghĩ:
Atha kho bhagavato etadahosi:

“Ðã lâu, Sakka này sống đời trong sạch. Câu hỏi gì Sakka hỏi Ta, đều hỏi có lợi ích, không phải không lợi ích.
“dīgharattaṃ visuddho kho ayaṃ yakkho, yaṃ kiñci maṃ pañhaṃ pucchissati, sabbaṃ taṃ atthasañhitaṃyeva pucchissati, no anatthasañhitaṃ.

Câu hỏi gì hỏi Ta, Ta sẽ trả lời; và Sakka sẽ hiểu một cách mau chóng”.
Yañcassāhaṃ puṭṭho byākarissāmi, taṃ khippameva ājānissatī”ti.

Rồi Thế Tôn nói bài kệ sau đây với Thiên chủ Sakka:
Atha kho bhagavā sakkaṃ devānamindaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Vāsava hãy hỏi Ta,
Những gì tâm Ngươi muốn;
Mỗi câu hỏi của Ngươi,
Ta làm Ngươi thỏa mãn.
“Puccha vāsava maṃ pañhaṃ,
yaṃ kiñci manasicchasi;
Tassa tasseva pañhassa,
ahaṃ antaṃ karomi te”ti.

Chấm dứt tụng phẩm một.
Paṭhamabhāṇavāro niṭṭhito.

Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:
Katāvakāso sakko devānamindo bhagavatā imaṃ bhagavantaṃ paṭhamaṃ pañhaṃ apucchi:

Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài Thiên, Nhân, Asurā, Nāgā, Càn Thát Bà, và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước:
“Kiṃsaṃyojanā nu kho, mārisa, devā manussā asurā nāgā gandhabbā ye caññe santi puthukāyā, te:

“Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?
‘averā adaṇḍā asapattā abyāpajjā viharemu averino’ti iti ca nesaṃ hoti. Atha ca pana saverā sadaṇḍā sasapattā sabyāpajjā viharanti saverino”ti?

Ðó là hình thức câu hỏi thứ nhất, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn.
Itthaṃ sakko devānamindo bhagavantaṃ pañhaṃ apucchi.

Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
Tassa bhagavā pañhaṃ puṭṭho byākāsi:

Do tật đố và xan tham, các loài Thiên, Nhân Asurā, Nāgā, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước:
“Issāmacchariyasaṃyojanā kho, devānaminda, devā manussā asurā nāgā gandhabbā ye caññe santi puthukāyā, te:

“Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.
‘averā adaṇḍā asapattā abyāpajjā viharemu averino’ti iti ca nesaṃ hoti. Atha ca pana saverā sadaṇḍā sasapattā sabyāpajjā viharanti saverino”ti.

Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṃ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṃ puṭṭho byākāsi.

Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinandi anumodi:

Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata.

Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con diệt tận, do dự của con tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṃ sutvā”ti.

Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu?
“Issāmacchariyaṃ pana, mārisa, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ;

Cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt?
kismiṃ sati issāmacchariyaṃ hoti;

Cái gì không có mặt, thì tật đố xan tham không có mặt?”
kismiṃ asati issāmacchariyaṃ na hotī”ti?

“Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu.
“Issāmacchariyaṃ kho, devānaminda, piyāppiyanidānaṃ piyāppiyasamudayaṃ piyāppiyajātikaṃ piyāppiyapabhavaṃ;

Ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt.
piyāppiye sati issāmacchariyaṃ hoti,

Ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.”
piyāppiye asati issāmacchariyaṃ na hotī”ti.

“Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì?
“Piyāppiyaṃ pana, mārisa, kiṃnidānaṃ kiṃsamudayaṃ kiṃjātikaṃ kiṃpabhavaṃ;

Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt?
kismiṃ sati piyāppiyaṃ hoti;

Cái gì không có mặt thì ưa ghét không có mặt?”
kismiṃ asati piyāppiyaṃ na hotī”ti?

“Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu.
“Piyāppiyaṃ kho, devānaminda, chandanidānaṃ chandasamudayaṃ chandajātikaṃ chandapabhavaṃ;

Dục có mặt thì ưa ghét có mặt;
chande sati piyāppiyaṃ hoti;

Dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.”
chande asati piyāppiyaṃ na hotī”ti.

“Bạch Thế Tôn, nhưng dục do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến dục sanh khởi, cái gì khiến dục hiện hữu?
“Chando pana, mārisa, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo;

Cái gì có mặt thì dục có mặt?
kismiṃ sati chando hoti;

Cái gì không có mặt thì dục không có mặt?”
kismiṃ asati chando na hotī”ti?

“Này Thiên chủ, dục do tầm làm nhân duyên, do tầm làm tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu.
“Chando kho, devānaminda, vitakkanidāno vitakkasamudayo vitakkajātiko vitakkapabhavo;

Tầm có mặt thì dục có mặt;
vitakke sati chando hoti;

tầm không có mặt thì dục không có mặt.”
vitakke asati chando na hotī”ti.

“Bạch Thế Tôn, tầm lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến tầm sanh khởi, cái gì khiến tầm hiện hữu?
“Vitakko pana, mārisa, kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo;

Cái gì có mặt thì tầm có mặt?
kismiṃ sati vitakko hoti;

Cái gì không có mặt thì tầm không có mặt?”
kismiṃ asati vitakko na hotī”ti?

“Này Thiên chủ, tầm lấy cái loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm hiện hữu.
“Vitakko kho, devānaminda, papañcasaññāsaṅkhānidāno papañcasaññāsaṅkhāsamudayo papañcasaññāsaṅkhājātiko papañcasaññāsaṅkhāpabhavo;

Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì tầm có mặt.
papañcasaññāsaṅkhāya sati vitakko hoti;

Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì tầm không có mặt”.
papañcasaññāsaṅkhāya asati vitakko na hotī”ti.

“Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như thế nào? Phải thành tựu con đường nào thích hợp và hướng dẫn diệt trừ các loại vọng tưởng hý luận?”
“Kathaṃ paṭipanno pana, mārisa, bhikkhu papañcasaññāsaṅkhānirodhasāruppagāminiṃ paṭipadaṃ paṭipanno hotī”ti?

Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại: một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
“Somanassampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại: một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
Domanassampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại: một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
Upekkhampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Somanassampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, loại hỷ nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā somanassaṃ

“Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thời hỷ ấy cần phải tránh xa.
‘imaṃ kho me somanassaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpaṃ somanassaṃ na sevitabbaṃ.

Ở đây loại hỷ nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā somanassaṃ

“Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thời hỷ ấy nên thân cận.
‘imaṃ kho me somanassaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpaṃ somanassaṃ sevitabbaṃ.

Ở đây, có hỷ câu hữu với tầm, câu hữu với tứ; có hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Tattha yañce savitakkaṃ savicāraṃ, yañce avitakkaṃ avicāraṃ, ye avitakke avicāre, te paṇītatare.

Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Somanassampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti.

Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
Iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy?
Domanassampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, loại ưu nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā domanassaṃ

“Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thời ưu ấy cần phải tránh xa.
‘imaṃ kho me domanassaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpaṃ domanassaṃ na sevitabbaṃ.

Ở đây, loại ưu nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā domanassaṃ

“Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thời ưu ấy nên thân cận.
‘imaṃ kho me domanassaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpaṃ domanassaṃ sevitabbaṃ.

Ở đây, có ưu câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Tattha yañce savitakkaṃ savicāraṃ, yañce avitakkaṃ avicāraṃ, ye avitakke avicāre, te paṇītatare.

Này Thiên chủ, Ta nói ưu là hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Domanassampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti

Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.
iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy?
Upekkhampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, loại xả nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā upekkhaṃ

“Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thời xả ấy cần phải tránh xa.
‘imaṃ kho me upekkhaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpā upekkhā na sevitabbā.

Ở đây, loại xả nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā upekkhaṃ

“Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thời xả ấy nên thân cận.
‘imaṃ kho me upekkhaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpā upekkhā sevitabbā.

Ở đây, có xả câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Tattha yañce savitakkaṃ savicāraṃ, yañce avitakkaṃ avicāraṃ, ye avitakke avicāre, te paṇītatare.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng xả có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Upekkhampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti

Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như vậy, phải thành tựu con đường như vậy, mới thích hợp và hướng dẫn đến sự diệt trừ các vọng tưởng hý luận.
Evaṃ paṭipanno kho, devānaminda, bhikkhu papañcasaññāsaṅkhānirodhasāruppagāminiṃ paṭipadaṃ paṭipanno hotī”ti.

Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṃ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṃ puṭṭho byākāsi.

Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinandi anumodi:

“Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata.

Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con được diệt tận, do dự của con được tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṃ sutvā”ti.

Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ câu trả lời của Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như thế nào?
“Kathaṃ paṭipanno pana, mārisa, bhikkhu pātimokkhasaṃvarāya paṭipanno hotī”ti?

Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại: Một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
“Kāyasamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại: Một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Vacīsamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại: Một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Pariyesanaṃpāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Kāyasamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampīti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā kāyasamācāraṃ

“Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thì thân hành ấy cần phải tránh xa.
‘imaṃ kho me kāyasamācāraṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpo kāyasamācāro na sevitabbo.

Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được:
Tattha yaṃ jaññā kāyasamācāraṃ

“Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thì thân hành ấy cần phải thân cận.
‘imaṃ kho me kāyasamācāraṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpo kāyasamācāro sevitabbo.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại—một loại cần thân cận, một loại cần tránh xa.
Kāyasamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti

Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy?
iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Vacīsamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thì khẩu hành ấy phải tránh xa.
Tattha yaṃ jaññā vacīsamācāraṃ ‘imaṃ kho me vacīsamācāraṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpo vacīsamācāro na sevitabbo.

Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thì khẩu hành ấy cần phải thân cận.
Tattha yaṃ jaññā vacīsamācāraṃ ‘imaṃ kho me vacīsamācāraṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpo vacīsamācāro sevitabbo.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Vacīsamācārampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti

Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.
iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu cũng có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Pariyesanaṃpāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṃ vuttaṃ, kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây loại tầm cầu nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với tầm cầu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thì loại tầm cầu ấy cần phải tránh xa.
Tattha yaṃ jaññā pariyesanaṃ ‘imaṃ kho me pariyesanaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpā pariyesanā na sevitabbā.

Ở đây, loại tầm cầu nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận loại tầm cầu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thì loại tầm cầu ấy nên thân cận.
Tattha yaṃ jaññā pariyesanaṃ ‘imaṃ kho me pariyesanaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpā pariyesanā sevitabbā.

Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Pariyesanaṃpāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti

Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như vậy, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như vậy!
Evaṃ paṭipanno kho, devānaminda, bhikkhu pātimokkhasaṃvarāya paṭipanno hotī”ti.

Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṃ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṃ puṭṭho byākāsi.

Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinandi anumodi:

Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata.

Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṃ sutvā”ti.

Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu hộ trì các căn như thế nào?
“Kathaṃ paṭipanno pana, mārisa, bhikkhu indriyasaṃvarāya paṭipanno hotī”ti?

Này Thiên chủ, sắc do mắt phân biệt, ta nói rằng có hai loại: một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
“Cakkhuviññeyyaṃ rūpampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, tiếng do tai phân biệt...một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Sotaviññeyyaṃ saddampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

hương do mũi phân biệt...một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Ghānaviññeyyaṃ gandhampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

vị do lưỡi phân biệt...một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Jivhāviññeyyaṃ rasampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

xúc do thân phân biệt...một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Kāyaviññeyyaṃ phoṭṭhabbampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.

Này Thiên chủ, pháp do ý phân biệt, Ta nói rằng có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.”
Manoviññeyyaṃ dhammampāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampī”ti.

Ðược nghe như vậy, Thiên chủ Sakka bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, sakko devānamindo bhagavantaṃ etadavoca:

Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt được con hiểu một cách rộng rãi:
“Imassa kho ahaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.

Bạch Thế Tôn, loại sắc do mắt phân biệt, khi con thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên tránh xa
Yathārūpaṃ, bhante, cakkhuviññeyyaṃ rūpaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, evarūpaṃ cakkhuviññeyyaṃ rūpaṃ na sevitabbaṃ.

Bạch Thế Tôn, loại sắc nào do mắt phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên thân cận.
Yathārūpañca kho, bhante, cakkhuviññeyyaṃ rūpaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti, evarūpaṃ cakkhuviññeyyaṃ rūpaṃ sevitabbaṃ.

Bạch Thế Tôn, loại tiếng nào do tai phân biệt...
Yathārūpañca kho, bhante, sotaviññeyyaṃ saddaṃ sevato ...pe...

loại hương nào do mũi phân biệt...
ghānaviññeyyaṃ gandhaṃ sevato ...

loại vị nào do lưỡi phân biệt...
jivhāviññeyyaṃ rasaṃ sevato ...

loại xúc nào do thân phân biệt...
kāyaviññeyyaṃ phoṭṭhabbaṃ sevato ...

loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại pháp ấy nên tránh xa.
manoviññeyyaṃ dhammaṃ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, evarūpo manoviññeyyo dhammo na sevitabbo.

Bạch Thế Tôn, loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại pháp ấy nên thân cận.
Yathārūpañca kho, bhante, manoviññeyyaṃ dhammaṃ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti, evarūpo manoviññeyyo dhammo sevitabbo.

Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt, được con hiểu một cách rộng rãi.
Imassa kho me, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānato

Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con tiêu tan, do dự của con diệt tận.
tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṃ sutvā”ti.

Như vậy sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn, Thiên chủ Sakka lại hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ uttari pañhaṃ apucchi:

Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn đều đồng một tư tưởng, đồng một giới hạnh, đồng một mong cầu, đồng một chí hướng?
“Sabbeva nu kho, mārisa, samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti?

Này Thiên chủ, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng!
“Na kho, devānaminda, sabbe samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti.

Bạch Thế Tôn, vì sao cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng?
“Kasmā pana, mārisa, na sabbe samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti?

Này Thiên chủ, thế giới này gồm có nhiều loại giới, nhiều giới sai biệt.
“Anekadhātu nānādhātu kho, devānaminda, loko.

Trong thế giới gồm có nhiều loại giới và nhiều giới sai biệt này, các loại hữu tình tự nhiên thiên chấp một loại giới nào, và khi đã thiên chấp, trở thành Kiên trì, cố thủ, với định kiến:
Tasmiṃ anekadhātunānādhātusmiṃ loke yaṃ yadeva sattā dhātuṃ abhinivisanti, taṃ tadeva thāmasā parāmāsā abhinivissa voharanti:

“Ðây là sự thật, ngoài ra toàn là si mê”.
‘idameva saccaṃ moghamaññan’ti.

Do vậy, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một cứu cánh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng.
Tasmā na sabbe samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti.

Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn đều đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích?
“Sabbeva nu kho, mārisa, samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti?

Này Thiên chủ, tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích.
“Na kho, devānaminda, sabbe samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti.

Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả Sa môn, Bà la môn, không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích?
“Kasmā pana, mārisa, na sabbe samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti?

Này Thiên chủ, chỉ những vị Sa môn Bà la môn nào đã giải thoát tham ái, những vị ấy mới đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích.
“Ye kho, devānaminda, bhikkhū taṇhāsaṅkhayavimuttā te accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā.

Do vậy, tất cả vị Sa môn, Bà la môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích.
Tasmā na sabbe samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti.

Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṃ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṃ puṭṭho byākāsi.

Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinandi anumodi:

Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṃ, bhagavā, evametaṃ, sugata.

Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṃ sutvā”ti.

Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn liền hỏi câu tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṃ etadavoca:

Bạch Thế Tôn, tham ái là bệnh tật, tham ái là mụn nhọt, tham ái là mũi tên, tham ái dắt dẫn con người tái sanh đời này, đời khác,
“Ejā, bhante, rogo, ejā gaṇḍo, ejā sallaṃ, ejā imaṃ purisaṃ parikaḍḍhati tassa tasseva bhavassa abhinibbattiyā.

khiến con người khi cao, khi thấp.
Tasmā ayaṃ puriso uccāvacamāpajjati.

Bạch Thế Tôn, trong khi các Sa môn, Bà la môn khác ngoài giáo phái của Ngài không cho con dịp để hỏi những câu hỏi, thời Thế Tôn lại trả lời những câu hỏi ấy cho con,
Yesāhaṃ, bhante, pañhānaṃ ito bahiddhā aññesu samaṇabrāhmaṇesu okāsakammampi nālatthaṃ, te me bhagavatā byākatā.

giảng giải rất lâu cho con, khiến mũi tên nghi ngờ, do dự của con được Thế Tôn rút nhổ đi.
Dīgharattānusayitañca pana me vicikicchākathaṅkathāsallaṃ, tañca bhagavatā abbuḷhan”ti.

Này Thiên chủ, Ngươi có biết những câu hỏi ấy cũng được Ngươi hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác không?
“Abhijānāsi no tvaṃ, devānaminda, ime pañhe aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitā”ti?

Bạch Thế Tôn, con được biết những câu hỏi ấy cũng được con hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác.
“Abhijānāmahaṃ, bhante, ime pañhe aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitā”ti.

Này Thiên chủ, những vị ấy trả lời với Ngươi như thế nào, nếu không gì trở ngại hãy nói cho ta biết.
“Yathā kathaṃ pana te, devānaminda, byākaṃsu? Sace te agaru bhāsassū”ti.

Bạch Thế Tôn, không gì trở ngại cho con, khi Thế Tôn ngồi nghe hay những vị như Thế Tôn.
“Na kho me, bhante, garu yatthassa bhagavā nisinno bhagavantarūpo vā”ti.

Này Thiên chủ, vậy Ngươi hãy nói đi.
“Tena hi, devānaminda, bhāsassū”ti.

Bạch Thế Tôn, những vị Sa môn, Bà la môn mà con nghĩ là những vị sống trong rừng an tịnh, xa vắng, con đi đến những vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị này không trả lời cho con, không trả lời lại hỏi ngược con:
“Yesvāhaṃ, bhante, maññāmi samaṇabrāhmaṇā āraññikā pantasenāsanāti, tyāhaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe pucchāmi, te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaṃyeva paṭipucchanti:

“Tôn giả tên gì?”
‘ko nāmo āyasmā’ti?

Ðược hỏi vậy con trả lời:
Tesāhaṃ puṭṭho byākaromi:

“Chư Hiền giả, tên là Thiên chủ Sakka.”
‘ahaṃ kho, mārisa, sakko devānamindo’ti.

Rồi những vị ấy lại hỏi thêm con câu nữa:
Te mamaṃyeva uttari paṭipucchanti:

“Do công việc gì Tôn giả Thiên chủ lại đến chỗ này?”
‘kiṃ panāyasmā, devānaminda, kammaṃ katvā imaṃ ṭhānaṃ patto’ti?

Con liền giảng cho những vị ấy Chánh pháp như con đã được nghe và đã được học.
Tesāhaṃ yathāsutaṃ yathāpariyattaṃ dhammaṃ desemi.

Chỉ được từng ấy, các vị hoan hỷ và nói:
Te tāvatakeneva attamanā honti:

“Chúng tôi đã được thấy Thiên chủ Sakka. Những điều gì chúng tôi hỏi, vị ấy đều trả lời cho chúng tôi.”
‘sakko ca no devānamindo diṭṭho, yañca no apucchimhā, tañca no byākāsī’ti.

Không những vậy, các vị này trở thành đệ tử của con, chớ không phải con là đệ tử của các vị ấy.
Te aññadatthu mamaṃyeva sāvakā sampajjanti, na cāhaṃ tesaṃ.

Bạch Thế Tôn, nhưng con là đệ tử của Thế Tôn, đã chứng Dự lưu, không còn bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn sẽ được giác ngộ.
Ahaṃ kho pana, bhante, bhagavato sāvako sotāpanno avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo”ti.

Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
“Abhijānāsi no tvaṃ, devānaminda, ito pubbe evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhan”ti?

Bạch Thế Tôn, trước kia con không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được an lạc như vậy.
“Abhijānāmahaṃ, bhante, ito pubbe evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhan”ti.

Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
“Yathā kathaṃ pana tvaṃ, devānaminda, abhijānāsi ito pubbe evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhan”ti?

Bạch Thế Tôn, thuở xưa, một trận chiến tranh xẩy ra giữa chư Thiên và các vị Asurā.
“Bhūtapubbaṃ, bhante, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.

Bạch Thế Tôn, trong trận chiến tranh này, chư Thiên thắng trận, các loài Asurā bại trận.
Tasmiṃ kho pana, bhante, saṅgāme devā jiniṃsu, asurā parājayiṃsu.

Bạch Thế Tôn sau khi thắng trận, con là người thắng trận, con suy nghĩ:
Tassa mayhaṃ, bhante, taṃ saṅgāmaṃ abhivijinitvā vijitasaṅgāmassa etadahosi:

“Nay mật ngọt của chư Thiên và mật ngọt của Asurā, cả hai loại mật ngọt, chư Thiên sẽ được nếm.”
‘yā ceva dāni dibbā ojā yā ca asurā ojā, ubhayametaṃ devā paribhuñjissantī’ti.

Bạch Thế Tôn, thoải mái ấy, hỷ lạc ấy do gậy trượng đem lại, do đao kiếm đem lại, không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.
So kho pana me, bhante, vedapaṭilābho somanassapaṭilābho sadaṇḍāvacaro sasatthāvacaro na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṃvattati.

Bạch Thế Tôn, thoải mái này, hỷ lạc này nhờ nghe Chánh pháp Thế Tôn đem lại, không do gậy trượng, không do đao kiếm, sẽ đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.
Yo kho pana me ayaṃ, bhante, bhagavato dhammaṃ sutvā vedapaṭilābho somanassapaṭilābho, so adaṇḍāvacaro asatthāvacaro ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṃvattatī”ti.

Này Thiên chủ, khi Ngươi cảm thọ sự thoải mái và hỷ lạc như vậy, Ngươi cảm thấy những lợi ích gì?
“Kiṃ pana tvaṃ, devānaminda, atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedesī”ti?

Bạch Thế Tôn, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy, con cảm thấy có sáu lợi ích như sau:
“Cha kho ahaṃ, bhante, atthavase sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Nay con đứng tại đây,
Với thân một vị Thiên;
Con thấy được tái sanh,
Bạch Ngài, hãy biết vậy.
Idheva tiṭṭhamānassa,
devabhūtassa me sato;
Punarāyu ca me laddho,
evaṃ jānāhi mārisa.

Bạch Thế Tôn đó là điều lợi thứ nhất con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái hỷ lạc như vậy.
Imaṃ kho ahaṃ, bhante, paṭhamaṃ atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Sau khi chết con bỏ,
Thân chư Thiên, phi nhân;
Không muội lược, con đi,
Ðến bào thai con thích.
Cutāhaṃ diviyā kāyā,
āyuṃ hitvā amānusaṃ;
Amūḷho gabbhamessāmi,
yattha me ramatī mano.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ hai, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṃ kho ahaṃ, bhante, dutiyaṃ atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Câu hỏi được đáp rõ,
Hoan hỷ trong Chánh giáo;
Con sống với Chánh trí,
Giác tỉnh và Chánh niệm.
Svāhaṃ amūḷhapaññassa,
viharaṃ sāsane rato;
Ñāyena viharissāmi,
sampajāno paṭissato.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi thứ ba, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṃ kho ahaṃ, bhante, tatiyaṃ atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Con sống với Chánh trí,
Sẽ được quả Bồ đề;
Sống làm vị Chánh giác,
Ðời này đời cuối cùng.
Ñāyena me carato ca,
sambodhi ce bhavissati;
Aññātā viharissāmi,
sveva anto bhavissati.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ tư, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṃ kho ahaṃ, bhante, catutthaṃ atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Chết từ thân con Người,
Con từ bỏ thân Người;
Con sẽ thành chư Thiên,
Trong Thiên giới vô thượng.
Cutāhaṃ mānusā kāyā,
āyuṃ hitvāna mānusaṃ;
Puna devo bhavissāmi,
devalokamhi uttamo.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ năm, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái, và hỷ lạc như vậy.
Imaṃ kho ahaṃ, bhante, pañcamaṃ atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Thù thắng hơn chư Thiên,
Với danh xưng tối thượng;
Sống đời sống cuối cùng,
Như vậy nơi an trú.
Te paṇītatarā devā,
akaniṭṭhā yasassino;
Antime vattamānamhi,
so nivāso bhavissati.

Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ sáu, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṃ kho ahaṃ, bhante, chaṭṭhaṃ atthavasaṃ sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Bạch Thế Tôn, đó là sáu lợi ích, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Ime kho ahaṃ, bhante, cha atthavase sampassamāno evarūpaṃ vedapaṭilābhaṃ somanassapaṭilābhaṃ pavedemi.

Mong muốn không thoả mãn,
Nghi ngờ và do dự;
Thời gian khá lâu dài,
Con tìm cầu Như Lai,
Apariyositasaṅkappo,
vicikiccho kathaṅkathī;
Vicariṃ dīghamaddhānaṃ,
anvesanto tathāgataṃ.

Con nghĩ các Sa môn,
Sống một mình cô độc;
Là bậc Chánh Ðẳng Giác,
Vì vậy con tìm gặp.
Yassu maññāmi samaṇe,
pavivittavihārino;
Sambuddhā iti maññāno,
gacchāmi te upāsituṃ.

“Làm thế nào thành công?
Làm thế nào thất bại?
Ðược hỏi câu hỏi vậy?
Không thể chỉ hướng đường.
‘Kathaṃ ārādhanā hoti,
kathaṃ hoti virādhanā’;
Iti puṭṭhā na sampāyanti,
magge paṭipadāsu ca.

Khi họ đã đoán ra,
Biết con là Sakka;
Họ liền gạn hỏi con,
‘Ðến đây có việc gì?’.
Tyassu yadā maṃ jānanti,
sakko devānamāgato;
Tyassu mameva pucchanti,
‘kiṃ katvā pāpuṇī idaṃ’.

Con liền giảng Chánh pháp,
Con cho họ được nghe;
Hoan hỷ, họ bèn nói,
“Vāsava làm họ thấy!”
Tesaṃ yathāsutaṃ dhammaṃ,
desayāmi jane sutaṃ;
Tena attamanā honti,
‘diṭṭho no vāsavoti ca’.

Khi con được thấy Phật,
Nghi ngờ đều tiêu tan;
Nay con sống vô úy,
Hầu hạ bậc Chánh Giác.
Yadā ca buddhamaddakkhiṃ,
vicikicchāvitāraṇaṃ;
Somhi vītabhayo ajja,
sambuddhaṃ payirupāsiya.

Mũi tên độc tham ái,
Ðấng Chánh Giác nhổ lên;
Con đảnh lễ Ðại Hùng,
Đức Phật, bậc thân tộc mặt trời.
Taṇhāsallassa hantāraṃ,
buddhaṃ appaṭipuggalaṃ;
Ahaṃ vande mahāvīraṃ,
buddhamādiccabandhunaṃ.

Tôn giả như Phạm thiên,
Nay con đảnh lễ Ngài;
Nay con kính lễ Ngài,
Chúng con đảnh lễ Ngài.
Yaṃ karomasi brahmuno,
samaṃ devehi mārisa;
Tadajja tuyhaṃ kassāma,
handa sāmaṃ karoma te.

Ngài là bậc Chánh Giác,
Bậc Ðạo Sư vô thượng;
Trong đời kể chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài!”
Tvameva asi sambuddho,
tuvaṃ satthā anuttaro;
Sadevakasmiṃ lokasmiṃ,
natthi te paṭipuggalo”ti.

Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pañcasikha, con của Càn thát bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṃ gandhabbaputtaṃ āmantesi:

Này Khanh Pancasikha, Ngươi đã giúp ta nhiều việc. Trước nhờ Ngươi làm Thế Tôn bằng lòng,
“bahūpakāro kho mesi tvaṃ, tāta pañcasikha, yaṃ tvaṃ bhagavantaṃ paṭhamaṃ pasādesi.

sau khi Ngươi làm cho bằng lòng, ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Tayā, tāta, paṭhamaṃ pasāditaṃ pacchā mayaṃ taṃ bhagavantaṃ dassanāya upasaṅkamimhā arahantaṃ sammāsambuddhaṃ.

Ta sẽ đóng vai trò thân phụ cho Ngươi, Ngươi sẽ là Vua loài Càn thát bà. Ta sẽ cho Ngươi Bhaddā Suriyavaccasā, người mà ngươi ao ước.
Pettike vā ṭhāne ṭhapayissāmi, gandhabbarājā bhavissasi, bhaddañca te sūriyavacchasaṃ dammi, sā hi te abhipatthitā”ti.

Rồi Thiên chủ Sakka, lấy tay sờ đất, đọc lên ba lần bài kệ cảm hứng như sau:
Atha kho sakko devānamindo pāṇinā pathaviṃ parāmasitvā tikkhattuṃ udānaṃ udānesi:

Ðảnh lễ đấng Thế Tôn, Bậc La hán, Chánh Giác!
“Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

Ðảnh lễ đấng Thế Tôn, Bậc La hán, Chánh Giác!
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

Ðảnh lễ đấng Thế Tôn, Bậc La hán, Chánh Giác!”
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassā”ti.

Khi lời tuyên thuyết này được tụng đọc, pháp nhãn thanh tịnh vô cấu, khởi lên cho Thiên chủ Sakka:
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne sakkassa devānamindassa virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

“Phàm pháp gì tập sanh, pháp ấy sẽ bị hoại diệt.”
“yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.

Ngoài ra, 80.000 chư Thiên cũng chứng quả tương tợ.
Aññesañca asītiyā devatāsahassānaṃ;

Ðó là những câu hỏi, Thiên chủ Sakka được mời hỏi và được Thế Tôn trả lời.
iti ye sakkena devānamindena ajjhiṭṭhapañhā puṭṭhā, te bhagavatā byākatā.

Do vậy, cuộc đối thoại này cũng được gọi là Những Câu Hỏi Của Sakka (Ðế thích sở vấn).
Tasmā imassa veyyākaraṇassa sakkapañhātveva adhivacananti.

Sakkapañhasuttaṃ niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt