Trường Bộ 23
Dīgha Nikāya 23
Kinh Tệ Túc
Pāyāsisutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời tôn giả Kumāra Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) đang du hành trong nước Kosala (Câu-tát-la) cùng với Ðại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đi đến một đô thị của Kosala tên là Setavyā (Tư-ba-ê).
ekaṃ samayaṃ āyasmā kumārakassapo kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi yena setabyā nāma kosalānaṃ nagaraṃ tadavasari.
Rồi tôn giả Kumāra Kassapa trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapā (Thi-xá-bà).
Tatra sudaṃ āyasmā kumārakassapo setabyāyaṃ viharati uttarena setabyaṃ siṃsapāvane.
Lúc bấy giờ, vua Pāyāsi (Tệ-túc) cư trú tại Setavyā, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp.
Tena kho pana samayena pāyāsi rājañño setabyaṃ ajjhāvasati sattussadaṃ satiṇakaṭṭhodakaṃ sadhaññaṃ rājabhoggaṃ raññā pasenadinā kosalena dinnaṃ rājadāyaṃ brahmadeyyaṃ.
Lúc bấy giờ, vua Pāyāsi khởi lên ác, tà kiến như sau:
Tena kho pana samayena pāyāsissa rājaññassa evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
“itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā được nghe:
Assosuṃ kho setabyakā brāhmaṇagahapatikā:
“Sa môn Kumāra Kassapa, đệ tử Sa môn Gotama đang du hành trong nước Kosala cùng với Ðại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyā, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapā.
“samaṇo khalu bho kumārakassapo samaṇassa gotamassa sāvako kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi setabyaṃ anuppatto setabyāyaṃ viharati uttarena setabyaṃ siṃsapāvane.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về tôn giả Kumāra Kassapa được khởi lên:
Taṃ kho pana bhavantaṃ kumārakassapaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Tôn giả là bậc học rộng, tài cao, diệu trí, đa văn, lời nói thấu tâm, thiện xảo biện tài, bậc trưởng lão và bậc A la hán như vậy.
‘paṇḍito byatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno vuddho ceva arahā ca.
Lành thay! Nếu được gặp một vị A-la-hán như vậy.”
Sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’”ti.
Rồi các vị Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapā.
Atha kho setabyakā brāhmaṇagahapatikā setabyāya nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūtā uttarenamukhā gacchanti yena siṃsapāvanaṃ.
Lúc bấy giờ, vua Pāyāsi đi lên lầu thượng để nghỉ trưa.
Tena kho pana samayena pāyāsi rājañño uparipāsāde divāseyyaṃ upagato hoti.
Vua Pāyāsi thấy các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā đi ra khỏi thành Setavyā, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapā.
Addasā kho pāyāsi rājañño setabyake brāhmaṇagahapatike setabyāya nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūte uttarenamukhe gacchante yena siṃsapāvanaṃ,
Thấy vậy vua cho gọi quan hộ thành và hỏi:
disvā khattaṃ āmantesi:
Này Khanh, vì sao các Bà-la-môn và Gia chủ ở Setavyā đi ra khỏi thành Setavyā, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapā như vậy?
“kiṃ nu kho, bho khatte, setabyakā brāhmaṇagahapatikā setabyāya nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūtā uttarenamukhā gacchanti yena siṃsapāvanan”ti?
Có Sa môn Kumāra Kassapa, đệ tử Sa môn Gotama đang du hành trong nước Kosala cùng với Ðại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyā, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapā.
“Atthi kho, bho, samaṇo kumārakassapo, samaṇassa gotamassa sāvako kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi setabyaṃ anuppatto setabyāyaṃ viharati uttarena setabyaṃ siṃsapāvane.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về tôn giả Kumāra Kassapa được khởi lên:
Taṃ kho pana bhavantaṃ kumārakassapaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Tôn giả là bậc học rộng, tài cao, diệu trí, đa văn, lời nói thấu tâm, thiện xảo, biện tài”
‘paṇḍito byatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno vuddho ceva arahā cā’ti.
và các vị ấy đi đến yết kiến tôn giả Kumāra Kassapa.
Tamete bhavantaṃ kumārakassapaṃ dassanāya upasaṅkamantī”ti.
Này Khanh, hãy đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ấy và nói với họ như sau:
“Tena hi, bho khatte, yena setabyakā brāhmaṇagahapatikā tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā setabyake brāhmaṇagahapatike evaṃ vadehi:
“Vua Pāyāsi nói:
‘pāyāsi, bho, rājañño evamāha—
Các Hiền giả hãy đợi. Vua Pāyāsi cũng sẽ đến yết kiến Sa môn Kumāra Kassapa”.
āgamentu kira bhavanto, pāyāsipi rājañño samaṇaṃ kumārakassapaṃ dassanāya upasaṅkamissatī’ti.
Sa môn Kumāra Kassapa có thể cảm hóa các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā ngu muội và kém khả năng theo quan điểm:
Purā samaṇo kumārakassapo setabyake brāhmaṇagahapatike bāle abyatte saññāpeti:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.—
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’ti.
Này Khanh, sự thật không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.
Natthi hi, bho khatte, paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Xin vâng, thưa Tôn chủ! Vị quan hộ thành vâng lời vua Pāyāsi, đi đến các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā và nói:
“Evaṃ, bho”ti kho so khattā pāyāsissa rājaññassa paṭissutvā yena setabyakā brāhmaṇagahapatikā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā setabyake brāhmaṇagahapatike etadavoca:
Chư Hiền giả hãy chờ đợi, vua Pāyāsi sẽ đến yết kiến Sa môn Kumāra Kassapa.
“pāyāsi, bho, rājañño evamāha, āgamentu kira bhavanto, pāyāsipi rājañño samaṇaṃ kumārakassapaṃ dassanāya upasaṅkamissatī”ti.
Rồi Vua Pāyāsi được các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā hộ tống cùng đi đến rừng Simsapā chỗ trú của tôn giả Kumāra Kassapa. Sau khi đến, vua bèn nói lời thân ái, chào đón, chúc tụng rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho pāyāsi rājañño setabyakehi brāhmaṇagahapatikehi parivuto yena siṃsapāvanaṃ yenāyasmā kumārakassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā kumārakassapena saddhiṃ sammodi, sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā, có người đảnh lễ tôn giả Kumāra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người nói lời thân ái, chào đón chúc tụng tôn giả Kumāra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người chấp tay vái chào tôn giả Kumāra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên. Có người yên lặng ngồi xuống một bên.
Setabyakāpi kho brāhmaṇagahapatikā appekacce āyasmantaṃ kumārakassapaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu; appekacce āyasmatā kumārakassapena saddhiṃ sammodiṃsu; sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Appekacce yenāyasmā kumārakassapo tenañjaliṃ paṇāmetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Appekacce nāmagottaṃ sāvetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṃ nisīdiṃsu.
Sau khi ngồi xuống một bên, vua Pāyāsi thưa với tôn giả Kumāra Kassapa:
Ekamantaṃ nisinno kho pāyāsi rājañño āyasmantaṃ kumārakassapaṃ etadavoca:
Tôn giả Kassapa, tôi có chủ thuyết và tri kiến như sau:
“ahañhi, bho kassapa, evaṃvādī evaṃdiṭṭhī:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
“Này Tôn chủ, tôi không thấy, không nghe quan điểm như vậy, tri kiến như vậy.
“Nāhaṃ, rājañña, evaṃvādiṃ evaṃdiṭṭhiṃ addasaṃ vā assosiṃ vā.
Sao Tôn chủ lại nói:
Kathañhi nāma evaṃ vadeyya:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’ti?
Thưa Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Tôn chủ một vài câu hỏi. Tôn chủ hãy tùy theo đó mà trả lời.
Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi.
Tôn chủ nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, rājañña,
Mặt trời và mặt trăng này, chúng thuộc thế giới này hay thế giới khác? Chúng thuộc chư Thiên hay loài Người?
ime candimasūriyā imasmiṃ vā loke parasmiṃ vā, devā vā te manussā vā”ti?
Tôn giả Kassapa, mặt trời và mặt trăng thuộc thế giới khác, không phải thế giới này, chúng thuộc chư Thiên, không thuộc loài Người.
“Ime, bho kassapa, candimasūriyā parasmiṃ loke, na imasmiṃ; devā te na manussā”ti.
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, cần phải chấp nhận rằng:
“Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu—
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, sự kiện gì để chứng minh rằng:
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo, yena te pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti?
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng:
“Atthi, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, như thế nào?
“Yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Tôn giả Kassapa, tôi có những người bạn tri kỷ, thân tộc cùng một huyết thống. Những người này sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến.
“Idha me, bho kassapa, mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī.
Những người này, sau một thời gian bị trọng bịnh, bị đau khổ, bị chứng tật.
Te aparena samayena ābādhikā honti dukkhitā bāḷhagilānā.
Khi tôi biết:
Yadāhaṃ jānāmi:
Những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói:
‘na dānime imamhā ābādhā vuṭṭhahissantī’ti tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:
“Một số Sa môn, Bà -la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
‘santi kho, bho, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino:
“Những ai sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục”.
“ye te pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjantī”ti.
Nay các Hiền giả sát sanh, lấy của không cho, tà dâm nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến.
Bhavanto kho pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī.
Nếu lời nói những vị Sa môn Bà-la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục...
Sace tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ saccaṃ vacanaṃ, bhavanto kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjissanti.
Nếu các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết:
Sace, bho, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyyātha, yena me āgantvā āroceyyātha:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Các hiền giả là các thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy, thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy.”
Bhavanto kho pana me saddhāyikā paccayikā, yaṃ bhavantehi diṭṭhaṃ, yathā sāmaṃ diṭṭhaṃ evametaṃ bhavissatī’ti.
Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: “Lành thay!” Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi sứ giả đến.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā neva āgantvā ārocenti, na pana dūtaṃ pahiṇanti.
Này Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi có tri kiến:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, nay tôi sẽ hỏi Tôn chủ, nếu có thể chấp nhận, Tôn chủ hãy trả lời.
“Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṃ byākareyyāsi.
Tôn chủ nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, rājañña,
Ở đời, có những người bắt được một người ăn trộm phạm lỗi và đem đến cho Ngài:
idha te purisā coraṃ āgucāriṃ gahetvā dasseyyuṃ:
“Thưa Ngài, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṃ te, bhante, coro āgucārī;
Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṃ icchasi, taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti.
Tôn chủ trả lời những người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy trói người này thật chặt, dùng dây thật chắc trói hai tay ra đằng sau, cạo trọc đầu anh ta, cho đánh trống lớn tiếng và dẫn anh ta đi từ đường này hẻm nọ, xong đưa ra khỏi cổng thành hướng Nam mà chặt đầu tại pháp trường hướng Nam.”
‘tena hi, bho, imaṃ purisaṃ daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṃ gāḷhabandhanaṃ bandhitvā khuramuṇḍaṃ karitvā kharassarena paṇavena rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ parinetvā dakkhiṇena dvārena nikkhamitvā dakkhiṇato nagarassa āghātane sīsaṃ chindathā’ti.
Lành thay! Những người ấy vâng lời, trói người ăn trộm thật chặt, dùng dây thật chắc trói hai tay ra đằng sau, cạo trọc đầu anh ta, cho đánh trống lớn tiếng và dẫn anh ta đi từ đường này hẻm nọ, xong đưa anh ta ra khỏi cổng thành hướng Nam và tại pháp trường hướng Nam, bắt anh ta ngồi xuống.
Te ‘sādhū’ti paṭissutvā taṃ purisaṃ daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṃ gāḷhabandhanaṃ bandhitvā khuramuṇḍaṃ karitvā kharassarena paṇavena rathikāya rathikaṃ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṃ parinetvā dakkhiṇena dvārena nikkhamitvā dakkhiṇato nagarassa āghātane nisīdāpeyyuṃ.
Nay người ăn trộm ấy có thể xin người đem chém mình:
Labheyya nu kho so coro coraghātesu:
“Thưa quý vị, quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này.” Hay những người ấy chặt ngay đầu người ăn trộm cầu xin như vậy?
‘āgamentu tāva bhavanto coraghātā, amukasmiṃ me gāme vā nigame vā mittāmaccā ñātisālohitā, yāvāhaṃ tesaṃ uddisitvā āgacchāmī’ti, udāhu vippalapantasseva coraghātā sīsaṃ chindeyyun”ti?
Tôn giả Kassapa, người ăn trộm ấy không được những người đem chém mình cho phép:
“Na hi so, bho kassapa, coro labheyya coraghātesu:
“Thưa quý vị, quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này.”
‘āgamentu tāva bhavanto coraghātā amukasmiṃ me gāme vā nigame vā mittāmaccā ñātisālohitā, yāvāhaṃ tesaṃ uddisitvā āgacchāmī’ti.
Những người ấy chặt ngay đầu người ăn trộm cầu xin như vậy.
Atha kho naṃ vippalapantasseva coraghātā sīsaṃ chindeyyun”ti.
Này Tôn Chủ, người ăn trộm thuộc loài Người, không được phép người xử trảm mình cũng là loài Người:
“So hi nāma, rājañña, coro manusso manussabhūtesu coraghātesu na labhissati:
“Thưa quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở làng này, hay ở xã này”
‘āgamentu tāva bhavanto coraghātā, amukasmiṃ me gāme vā nigame vā mittāmaccā ñātisālohitā, yāvāhaṃ tesaṃ uddisitvā āgacchāmī’ti.
Thời làm sao những người thân bằng quyến thuộc của Ngài, đã sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục lại được những người coi giữ địa ngục cho phép:
Kiṃ pana te mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā labhissanti nirayapālesu:
“Thưa quý vị coi giữ địa ngục, quý vị hãy cho phép tôi về tâu với vua Pāyāsi:
‘āgamentu tāva bhavanto nirayapālā, yāva mayaṃ pāyāsissa rājaññassa gantvā ārocema:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”?
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”’ti?
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, cần phải chấp nhận rằng:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng:
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo yena te pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti?
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng:
“Atthi, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, như thế nào?
“Yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Tôn giả Kassapa, tôi có những thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
“Idha me, bho kassapa, mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī.
Những người này, sau một thời gian bị trọng bịnh, bị đau khổ, bị chứng tật.
Te aparena samayena ābādhikā honti dukkhitā bāḷhagilānā.
Khi tôi biết:
Yadāhaṃ jānāmi:
Những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói:
‘na dānime imamhā ābādhā vuṭṭhahissantī’ti tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:
“Một số Sa môn, Bà -la-môn có những quan điểm, những tri kiến như sau:
‘santi kho, bho, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino:
“Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, những người ấy khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới”.
“ye te pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjantī”ti.
Chư Hiền giả gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
Bhavanto kho pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī.
Nếu lời nói của những Sa môn, Bà -la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới.
Sace tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ saccaṃ vacanaṃ, bhavanto kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjissanti.
Nếu các hiền giả , sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết:
Sace, bho, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyyātha, yena me āgantvā āroceyyātha:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Các Hiền giả là thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy”.
Bhavanto kho pana me saddhāyikā paccayikā, yaṃ bhavantehi diṭṭhaṃ, yathā sāmaṃ diṭṭhaṃ evametaṃ bhavissatī’ti.
Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: “Lành thay! Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā neva āgantvā ārocenti, na pana dūtaṃ pahiṇanti.
Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Này Tôn chủ, ví như có người té đầu rơi vào hầm phân.
Seyyathāpi, rājañña, puriso gūthakūpe sasīsakaṃ nimuggo assa.
Ngài nói với các người khác:
Atha tvaṃ purise āṇāpeyyāsi:
“Hãy kéo người này ra khỏi hầm phân!”
‘tena hi, bho, taṃ purisaṃ tamhā gūthakūpā uddharathā’ti.
Những người ấy vâng theo và nói: “Lành thay!” và kéo người kia ra khỏi hầm phân ấy.
Te ‘sādhū’ti paṭissutvā taṃ purisaṃ tamhā gūthakūpā uddhareyyuṃ.
Ngài nói với những người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy lấy que tre gạt phân ra khỏi thân của người kia!”
‘tena hi, bho, tassa purisassa kāyā veḷupesikāhi gūthaṃ sunimmajjitaṃ nimmajjathā’ti.
Những người này vâng theo và nói: “Lành thay!” và lấy que tre gạt phân ra khỏi thân người kia.
Te ‘sādhū’ti paṭissutvā tassa purisassa kāyā veḷupesikāhi gūthaṃ sunimmajjitaṃ nimmajjeyyuṃ.
Rồi ngài bảo các người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy cho thoa bóp ba lần thân người kia với phấn hoa màu vàng.”
‘tena hi, bho, tassa purisassa kāyaṃ paṇḍumattikāya tikkhattuṃ subbaṭṭitaṃ ubbaṭṭethā’ti.
Và những người ấy cho thoa bóp ba lần thân người kia với phấn thoa bóp màu vàng.
Te tassa purisassa kāyaṃ paṇḍumattikāya tikkhattuṃ subbaṭṭitaṃ ubbaṭṭeyyuṃ.
Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy lấy dầu thoa và tắm cho người kia ba lần và dùng bột mịn cunna thoa cho nó!”
‘tena hi, bho, taṃ purisaṃ telena abbhañjitvā sukhumena cuṇṇena tikkhattuṃ suppadhotaṃ karothā’ti.
Và những người ấy lấy dầu thoa và tắm cho người kia ba lần và dùng bột mịn cunna thoa cho nó.
Te taṃ purisaṃ telena abbhañjitvā sukhumena cuṇṇena tikkhattuṃ suppadhotaṃ kareyyuṃ.
Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy sửa soạn râu tóc cho người kia!”
‘tena hi, bho, tassa purisassa kesamassuṃ kappethā’ti.
Và những người ấy sửa soạn râu tóc cho kia.
Te tassa purisassa kesamassuṃ kappeyyuṃ.
Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy lấy vòng hoa quý, dầu thơm quý và vải quý trang điểm cho người kia!”
‘tena hi, bho, tassa purisassa mahagghañca mālaṃ mahagghañca vilepanaṃ mahagghāni ca vatthāni upaharathā’ti.
Và những người ấy trang điểm vòng hoa quý, dầu thơm quý và vải quý cho người kia.
Te tassa purisassa mahagghañca mālaṃ mahagghañca vilepanaṃ mahagghāni ca vatthāni upahareyyuṃ.
Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṃ evaṃ vadeyyāsi:
“Hãy đưa người kia đến tòa lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc!”
‘tena hi, bho, taṃ purisaṃ pāsādaṃ āropetvā pañcakāmaguṇāni upaṭṭhāpethā’ti.
Và những người ấy đưa người kia đến tòa lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc.
Te taṃ purisaṃ pāsādaṃ āropetvā pañcakāmaguṇāni upaṭṭhāpeyyuṃ.
Tôn chủ nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, rājañña,
Người kia khéo tắm như vậy, khéo thoa dầu, khéo sửa soạn râu tóc, khéo trang điểm với vòng hoa và vải trắng, được đưa đến lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc như vậy, thử hỏi người kia có chịu đâm đầu vào hầm phân ấy nữa không?
api nu tassa purisassa sunhātassa suvilittassa sukappitakesamassussa āmukkamālābharaṇassa odātavatthavasanassa uparipāsādavaragatassa pañcahi kāmaguṇehi samappitassa samaṅgībhūtassa paricārayamānassa punadeva tasmiṃ gūthakūpe nimujjitukāmatā assā”ti?
Thưa không, Tôn giả Kassapa!
“No hidaṃ, bho kassapa”.
Vì sao không?
“Taṃ kissa hetu”?
Tôn giả Kassapa, hầm phân là bất tịnh và được xem là bất tịnh, xú uế và được xem là xú uế, ghê tởm và được xem là ghê tởm, yếm ố và được xem là yếm ố.
“Asuci, bho kassapa, gūthakūpo asuci ceva asucisaṅkhāto ca duggandho ca duggandhasaṅkhāto ca jeguccho ca jegucchasaṅkhāto ca paṭikūlo ca paṭikūlasaṅkhāto cā”ti.
Cũng vậy, Tôn chủ, với chư thiên thì nhân loại là bất tịnh và được xem là bất tịnh, xú uế và được xem là xú uế, ghê tởm và được xem là ghê tởm, yếm ố và được xem là yếm ố.
“Evameva kho, rājañña, manussā devānaṃ asucī ceva asucisaṅkhātā ca, duggandhā ca duggandhasaṅkhātā ca, jegucchā ca jegucchasaṅkhātā ca, paṭikūlā ca paṭikūlasaṅkhātā ca.
Này Tôn chủ, mùi hôi của loài Người khiến chư Thiên ghê tởm xa đến một trăm do tuần.
Yojanasataṃ kho, rājañña, manussagandho deve ubbādhati.
Làm sao những người thân bằng quyến thuộc của Ngài, gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, những người ấy có thể về tin lại cho Tôn chủ:
Kiṃ pana te mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā te āgantvā ārocessanti:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’ti?
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kasspa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo ...pe...
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“atthi, bho kassapa, pariyāyo ...pe...
Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṃ viya, rājaññāti?
Tôn giả Kassapa, tôi có những người thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
“Idha me, bho kassapa, mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā,
Những người này sau một thời gian bị trọng bệnh, bị đau khổ, bị chứng tật.
te aparena samayena ābādhikā honti dukkhitā bāḷhagilānā.
Khi tôi biết:
Yadāhaṃ jānāmi:
Những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói:
‘na dānime imamhā ābādhā vuṭṭhahissantī’ti tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:
“Một số Sa môn, Bà -la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
‘santi kho, bho, eke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino:
“Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Những người ấy khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào thiện thú, tam thập tam thiên”.
“ye te pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjanti devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyatan”ti.
Chư Hiền giả gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
Bhavanto kho pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā.
Nếu lời nói của những vị Sa môn, Bà -la-môn này chính xác thời các Hiền giả, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới cõi tam thập tam.
Sace tesaṃ bhavataṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ saccaṃ vacanaṃ, bhavanto kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjissanti, devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
Thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết:
Sace, bho, kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjeyyātha devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ, yena me āgantvā āroceyyātha:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Các Hiền giả là thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy sẽ là như vậy, như chính ta được thấy.”
Bhavanto kho pana me saddhāyikā paccayikā, yaṃ bhavantehi diṭṭhaṃ, yathā sāmaṃ diṭṭhaṃ evametaṃ bhavissatī’ti.
Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: “Lành thay!” Nhưng không ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā neva āgantvā ārocenti, na pana dūtaṃ pahiṇanti.
Này Tôn giả Kassapa sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài xem có thể được Ngài hãy trả lời.
“Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi; yathā te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi.
Này Tôn chủ, tuổi loài người một trăm năm bằng một ngày một đêm chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Ba mươi đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng như vậy là một năm, một ngàn năm ở Thiên giới như vậy là tuổi thọ của chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
Yaṃ kho pana, rājañña, mānussakaṃ vassasataṃ, devānaṃ tāvatiṃsānaṃ eso eko rattindivo, tāya rattiyā tiṃsarattiyo māso, tena māsena dvādasamāsiyo saṃvaccharo, tena saṃvaccharena dibbaṃ vassasahassaṃ devānaṃ tāvatiṃsānaṃ āyuppamāṇaṃ.
Những thân bằng quyến thuộc của Tôn chủ như vậy gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến. Các vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới và làm thiện hữu với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
Ye te mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
Nếu những vị này suy nghĩ:
Sace pana tesaṃ evaṃ bhavissati:
“Chúng ta hãy thọ hưởng một món dục lạc hai hay ba ngày đêm ở Thiên giới, rồi sau sẽ đến Tôn chủ Pāyāsi và tin cho biết:
‘yāva mayaṃ dve vā tīṇi vā rattindivā dibbehi pañcahi kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricārema, atha mayaṃ pāyāsissa rājaññassa gantvā āroceyyāma:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”ti.
Và những vị ấy có đến Ngài và tin cho biết:
Api nu te āgantvā āroceyyuṃ—
“Có đời sau, có loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo” không?
itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti?
Thưa không, Tôn giả Kassapa!
“No hidaṃ, bho kassapa.
Tôn giả Kassapa, vì chúng tôi sẽ chết đã lâu rồi.
Api hi mayaṃ, bho kassapa, ciraṃ kālaṅkatāpi bhaveyyāma.
Nhưng ai cho Tôn giả Kassapa biết:
Ko panetaṃ bhoto kassapassa āroceti:
“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên, hay chư Thiên ở Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy”.
‘atthi devā tāvatiṃsā’ti vā ‘evaṃdīghāyukā devā tāvatiṃsā’ti vā.
Chúng tôi không tin người ấy, khi người ấy nói:
Na mayaṃ bhoto kassapassa saddahāma:
“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên! Hay chư Thiên ở Tam thập tam thiên, tuổi thọ là như vậy!”
‘atthi devā tāvatiṃsā’ti vā ‘evaṃdīghāyukā devā tāvatiṃsā’ti vā”ti.
Này Tôn chủ, như có người sanh ra đã mù, không thấy được các sắc đen hay trắng, không thấy được các sắc xanh, hay sắc vàng, các sắc đỏ, hay các sắc nâu, không thấy được các sắc tế nhị hay thô cứng, không thấy được các sao hay mặt trăng.
“Seyyathāpi, rājañña, jaccandho puriso na passeyya kaṇha—sukkāni rūpāni, na passeyya nīlakāni rūpāni, na passeyya pītakāni rūpāni, na passeyya lohitakāni rūpāni, na passeyya mañjiṭṭhakāni rūpāni, na passeyya samavisamaṃ, na passeyya tārakāni rūpāni, na passeyya candimasūriye.
Người ấy nói:
So evaṃ vadeyya:
“Không có các sắc đen hay trắng, không có người thấy các sắc đen hay trắng;
‘natthi kaṇhasukkāni rūpāni, natthi kaṇhasukkānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
không có sắc xanh, không có người thấy sắc xanh;
Natthi nīlakāni rūpāni, natthi nīlakānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
không có sắc vàng, không có người thấy các sắc vàng;
Natthi pītakāni rūpāni, natthi pītakānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
không có sắc đỏ, không có người thấy các sắc đỏ;
Natthi lohitakāni rūpāni, natthi lohitakānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
không có sắc nâu, không có người thấy các sắc nâu,
Natthi mañjiṭṭhakāni rūpāni, natthi mañjiṭṭhakānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
không các sắc tế nhị, thô cứng, không có người thấy các sắc tế nhị, thô cứng;
Natthi samavisamaṃ, natthi samavisamassa dassāvī.
không có các sao, không có người thấy các sao;
Natthi tārakāni rūpāni, natthi tārakānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
không có mặt trăng, mặt trời, không có người thấy mặt trăng mặt trời.
Natthi candimasūriyā, natthi candimasūriyānaṃ dassāvī.
Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, nên vật này không có.
Ahametaṃ na jānāmi, ahametaṃ na passāmi, tasmā taṃ natthī’ti.
Này Tôn chủ, nói như vậy có phải nói một cách hợp lý không?
Sammā nu kho so, rājañña, vadamāno vadeyyā”ti?
Thưa không, Tôn giả Kassapa.
“No hidaṃ, bho kassapa.
Có các sắc đen hay trắng, có người thấy các sắc đen hay trắng;
Atthi kaṇhasukkāni rūpāni, atthi kaṇhasukkānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
có các sắc xanh, có người thấy các sắc xanh; có các sắc đỏ, có người thấy các sắc đỏ; có các sắc nâu, có người thấy các sắc nâu; có các vật tế nhị hay thô cứng, có người thấy các vật tế nhị hay thô cứng;
Atthi nīlakāni rūpāni, atthi nīlakānaṃ rūpānaṃ dassāvī ...pe...atthi samavisamaṃ, atthi samavisamassa dassāvī.
có các vì sao, có người thấy các vì sao;
Atthi tārakāni rūpāni, atthi tārakānaṃ rūpānaṃ dassāvī.
có mặt trăng, mặt trời, có người thấy mặt trăng, mặt trời.
Atthi candimasūriyā, atthi candimasūriyānaṃ dassāvī.
“Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, do vậy vật này không có.”
‘Ahametaṃ na jānāmi, ahametaṃ na passāmi, tasmā taṃ natthī’ti.
Tôn giả Kassapa, ai nói như vậy là nói không hợp lý!
Na hi so, bho kassapa, sammā vadamāno vadeyyā”ti.
Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói cũng giống người sinh ra đã mù khi Ngài nói với tôi:
“Evameva kho tvaṃ, rājañña, jaccandhūpamo maññe paṭibhāsi yaṃ maṃ tvaṃ evaṃ vadesi.
“Ai bảo Tôn giả Kassapa biết rằng:
Ko panetaṃ bhoto kassapassa āroceti:
“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên,” hay “Chư thiên ở Tam thập Tam thiên tuổi thọ là như vậy!”
‘atthi devā tāvatiṃsā’ti vā, ‘evaṃdīghāyukā devā tāvatiṃsā’ti vā?
Chúng tôi không tin Tôn giả Kassapa, khi Tôn giả nói:
Na mayaṃ bhoto kassapassa saddahāma:
“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên,” hay “Chư thiên ở Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy”.
‘atthi devā tāvatiṃsā’ti vā ‘evaṃdīghāyukā devā tāvatiṃsā’ti vā”ti.
Này Tôn chủ, đời sau không như Ngài nghĩ có thể thấy bằng con mắt thịt.
“Na kho, rājañña, evaṃ paro loko daṭṭhabbo, yathā tvaṃ maññasi iminā maṃsacakkhunā.
Này Tôn chủ, có những Sa môn, Bà -la-môn, sống những chỗ hẻo lánh trong rừng, ít có tiếng ồn, ít có tiếng động. Tại những chỗ ấy, các vị này sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, làm cho thiên nhãn trong sạch.
Ye kho te, rājañña, samaṇabrāhmaṇā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, te tattha appamattā ātāpino pahitattā viharantā dibbacakkhuṃ visodhenti.
Rồi với thiên nhãn thanh tịnh thắng xa loài Người, các vị này thấy đời này, đời sau, và thấy các loại hóa sanh.
Te dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena imañceva lokaṃ passanti parañca satte ca opapātike.
Này Tôn chủ, đời sau phải được thấy như vậy.
Evañca kho, rājañña, paro loko daṭṭhabbo;
Không phải như Ngài nghĩ với con mắt thịt.
na tveva yathā tvaṃ maññasi iminā maṃsacakkhunā.
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo ...pe...
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo ...pe...
Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Tôn giả Kassapa, ở đây tôi thấy có những Sa môn, Bà -la-môn giữ giới, thiện tánh, ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ.
“Idhāhaṃ, bho kassapa, passāmi samaṇabrāhmaṇe sīlavante kalyāṇadhamme jīvitukāme amaritukāme sukhakāme dukkhapaṭikūle.
Tôn giả Kassapa, rồi tôi nghĩ:
Tassa mayhaṃ, bho kassapa, evaṃ hoti—
“Nếu những Sa môn, Bà -la-môn này giữ giới, có thiện tánh, được biết:
sace kho ime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā evaṃ jāneyyuṃ:
“Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn.”
‘ito no matānaṃ seyyo bhavissatī’ti.
Rồi những Sa môn, Bà -la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy, hoặc uống thuốc độc, hoặc lấy kiếm đâm, hoặc tự giết mình bằng cách treo cổ, hay tự lao mình xuống hố sâu.
Idānime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā visaṃ vā khādeyyuṃ, satthaṃ vā āhareyyuṃ, ubbandhitvā vā kālaṃ kareyyuṃ, papāte vā papateyyuṃ.
Vì những Sa môn, Bà -la-môn giữ giới có thiện tánh ấy không được biết:
Yasmā ca kho ime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā na evaṃ jānanti:
“Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn.” Do vậy các Sa môn, Bà -la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ.
‘ito no matānaṃ seyyo bhavissatī’ti, tasmā ime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā jīvitukāmā amaritukāmā sukhakāmā dukkhapaṭikūlā attānaṃ na mārenti.
Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Này Tôn chủ, ngày xưa có một người Bà-la-môn có hai người vợ.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, aññatarassa brāhmaṇassa dve pajāpatiyo ahesuṃ.
Từ một người vợ, ông ta có đứa con trai, mười hai tuổi; còn người vợ kia có mang thai, sắp đến kỳ sinh nở.
Ekissā putto ahosi dasavassuddesiko vā dvādasavassuddesiko vā, ekā gabbhinī upavijaññā.
Rồi người Bà-la-môn ấy mệnh chung.
Atha kho so brāhmaṇo kālamakāsi.
Ðứa con trai ấy nói với tiểu phu nhân kia:
Atha kho so māṇavako mātusapattiṃ etadavoca:
“Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi.
‘yamidaṃ, bhoti, dhanaṃ vā dhaññaṃ vā rajataṃ vā jātarūpaṃ vā, sabbaṃ taṃ mayhaṃ;
Tiểu mẫu nay không có gì hết.
natthi tuyhettha kiñci.
Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi.”
Pitu me, bhoti, dāyajjaṃ niyyādehī’ti.
Khi nghe nói vậy, Bà -la-môn nữ kia nói với đứa con trai ấy:
Evaṃ vutte, sā brāhmaṇī taṃ māṇavakaṃ etadavoca:
“Tiểu tử hãy chờ ta sanh con.
‘āgamehi tāva, tāta, yāva vijāyāmi.
Nếu ta sanh con trai, thì một phần gia tài thuộc về nó.
Sace kumārako bhavissati, tassapi ekadeso bhavissati;
Nếu sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con.”
sace kumārikā bhavissati, sāpi te opabhoggā bhavissatī’ti.
Lần thứ hai, đứa con trai ấy nói với Tiểu phu nhân kia:
Dutiyampi kho so māṇavako mātusapattiṃ etadavoca:
“Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi.
‘yamidaṃ, bhoti, dhanaṃ vā dhaññaṃ vā rajataṃ vā jātarūpaṃ vā, sabbaṃ taṃ mayhaṃ;
Tiểu mẫu nay không có gì hết.
natthi tuyhettha kiñci.
Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi.”
Pitu me, bhoti, dāyajjaṃ niyyādehī’ti.
Lần thứ hai, Bà -la-môn nữ kia nói với đứa trai ấy:
Dutiyampi kho sā brāhmaṇī taṃ māṇavakaṃ etadavoca:
“Tiểu tử hãy chờ ta sanh con.
‘āgamehi tāva, tāta, yāva vijāyāmi.
Nếu ta sanh con trai thì một phần gia tài thuộc về nó.
Sace kumārako bhavissati, tassapi ekadeso bhavissati;
Nếu ta sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con.”
sace kumārikā bhavissati sāpi te opabhoggā bhavissatī’ti.
Lần thứ ba, đứa con trai ấy nói với Tiểu phu nhân kia:
Tatiyampi kho so māṇavako mātusapattiṃ etadavoca:
“Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi.
‘yamidaṃ, bhoti, dhanaṃ vā dhaññaṃ vā rajataṃ vā jātarūpaṃ vā, sabbaṃ taṃ mayhaṃ;
Tiểu mẫu không có gì hết.
natthi tuyhettha kiñci.
Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi”.
Pitu me, bhoti, dāyajjaṃ niyyādehī’ti.
Rồi người Ba la môn nữ ấy lấy một con dao, vào trong nội phòng và rạch bụng ra.
Atha kho sā brāhmaṇī satthaṃ gahetvā ovarakaṃ pavisitvā udaraṃ opādesi:
“Ta muốn biết đó là con trai hay con gái.”
‘yāva vijāyāmi yadi vā kumārako yadi vā kumārikā’ti.
Như vậy người đàn bà ấy hại đời sống của mình, hại luôn cái thai và hại luôn tài sản của mình.
Sā attānañceva jīvitañca gabbhañca sāpateyyañca vināsesi.
vì đã đi tìm của thừa tự một cách ngu xuẩn và si mê, nên gặp phải nguy hiểm và tai nạn. Cũng vậy, vì ngu xuẩn và si mê, Ngài gặp phải ngu xuẩn và tai nạn khi Ngài đi tìm đời sau một cách vô trí;
Yathā taṃ bālā abyattā anayabyasanaṃ āpannā ayoniso dāyajjaṃ gavesantī, evameva kho tvaṃ, rājañña, bālo abyatto anayabyasanaṃ āpajjissasi ayoniso paralokaṃ gavesanto;
cũng giống Bà-la-môn nữ kia, vì ngu xuẩn và si mê, đã đi tìm thừa tự một cách vô trí.
seyyathāpi sā brāhmaṇī bālā abyattā anayabyasanaṃ āpannā ayoniso dāyajjaṃ gavesantī.
Này Tôn chủ, các vị Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh không bắt buộc cái gì chưa chín phải chín.
Na kho, rājañña, samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā apakkaṃ paripācenti;
Vì có trí, các vị ấy chờ chín muồi đến.
api ca paripākaṃ āgamenti.
Này Tôn chủ, các vị Sa môn, Bà-la-môn giữ giới có thiện tánh cần thiết đến mạng sống.
Paṇḍitānaṃ attho hi, rājañña, samaṇabrāhmaṇānaṃ sīlavantānaṃ kalyāṇadhammānaṃ jīvitena.
Này Tôn chủ, nếu các Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh sống lâu ở trên đời này bao nhiêu, các vị ấy làm được nhiều công đức bấy nhiêu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Yathā yathā kho, rājañña, samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti tathā tathā bahuṃ puññaṃ pasavanti, bahujanahitāya ca paṭipajjanti bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ.
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo ...pe...
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo ...pe...
Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Này Tôn giả Kassapa, ở đây có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi và nói:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṃ āgucāriṃ gahetvā dassenti:
“Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṃ te, bhante, coro āgucārī;
Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.
imassa yaṃ icchasi, taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti.
“Tôi nói với họ:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Các Hiền giả, hãy bỏ sống người này trong một cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt.
‘tena hi, bho, imaṃ purisaṃ jīvantaṃyeva kumbhiyā pakkhipitvā mukhaṃ pidahitvā allena cammena onandhitvā allāya mattikāya bahalāvalepanaṃ karitvā uddhanaṃ āropetvā aggiṃ dethā’ti.
Các người ấy đáp: “Xin vâng!”, rồi họ bỏ sống người ấy trong cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum lại, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā taṃ purisaṃ jīvantaṃyeva kumbhiyā pakkhipitvā mukhaṃ pidahitvā allena cammena onandhitvā allāya mattikāya bahalāvalepanaṃ karitvā uddhanaṃ āropetvā aggiṃ denti.
Khi chúng tôi biết người ấy đã chết, liền nhắc chum ấy xuống, cởi các dây buộc, mở miệng chum ra vội vàng nhìn kỹ:
Yadā mayaṃ jānāma ‘kālaṅkato so puriso’ti, atha naṃ kumbhiṃ oropetvā ubbhinditvā mukhaṃ vivaritvā saṇikaṃ nillokema:
“Chúng ta mong được thấy linh hồn (người chết) đi ra”.
‘appeva nāmassa jīvaṃ nikkhamantaṃ passeyyāmā’ti.
Nhưng chúng tôi không thấy linh hồn người chết đi ra.
Nevassa mayaṃ jīvaṃ nikkhamantaṃ passāma.
Tôn giả Kassap, sự kiện là như vậy nên tôi tin rằng:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài xem có thể được, Ngài hãy trả lời.
“Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya, tathā naṃ byākareyyāsi.
Này Tôn chủ, khi Ngài nghỉ trưa, Ngài có chấp nhận Ngài có thấy những cảnh mộng hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ không?
Abhijānāsi no tvaṃ, rājañña, divā seyyaṃ upagato supinakaṃ passitā ārāmarāmaṇeyyakaṃ vanarāmaṇeyyakaṃ bhūmirāmaṇeyyakaṃ pokkharaṇīrāmaṇeyyakan”ti?
Tôn giả Kassapa, tôi xác nhận khi đi nghỉ trưa, tôi có thấy những cảnh mộng hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ.
“Abhijānāmahaṃ, bho kassapa, divāseyyaṃ upagato supinakaṃ passitā ārāmarāmaṇeyyakaṃ vanarāmaṇeyyakaṃ bhūmirāmaṇeyyakaṃ pokkharaṇīrāmaṇeyyakan”ti.
Trong khi ấy, có phải Ngài được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái?
“Rakkhanti taṃ tamhi samaye khujjāpi vāmanakāpi velāsikāpi komārikāpī”ti?
Vâng, Tôn giả Kassapa, trong khi ấy, tôi được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái.
“Evaṃ, bho kassapa, rakkhanti maṃ tamhi samaye khujjāpi vāmanakāpi velāsikāpi komārikāpī”ti.
Và họ thấy linh hồn của Ngài đi ra hay đi vào không?
“Api nu tā tuyhaṃ jīvaṃ passanti pavisantaṃ vā nikkhamantaṃ vā”ti?
Tôn giả Kassapa, thưa không.
“No hidaṃ, bho kassapa”.
Này Tôn chủ, họ không thấy linh hồn của Tôn chủ đi ra hay đi vào trong khi ngài vẫn còn sống;
“Tā hi nāma, rājañña, tuyhaṃ jīvantassa jīvantiyo jīvaṃ na passissanti pavisantaṃ vā nikkhamantaṃ vā.
Thời làm sao Ngài có thể thấy linh hồn một người chết đi vào hay đi ra được?
Kiṃ pana tvaṃ kālaṅkatassa jīvaṃ passissasi pavisantaṃ vā nikkhamantaṃ vā.
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo ...pe...
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“atthi, bho kassapa, pariyāyo ...pe...
Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Tôn giả Kassapa, ở đời, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṃ āgucāriṃ gahetvā dassenti:
“Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṃ te, bhante, coro āgucārī;
Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṃ icchasi, taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti.
Tôi nói với họ:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Các khanh hãy đem cân sống anh ta đi, rồi lấy dây cung thắt cổ cho anh ta chết, xong đem cân lại.”
‘tena hi, bho, imaṃ purisaṃ jīvantaṃyeva tulāya tuletvā jiyāya anassāsakaṃ māretvā punadeva tulāya tulethā’ti.
Những người này vâng lời tôi và đáp: “Xin vâng!”, rồi họ đem cân sống người ăn trộm ấy, lấy dây cung thắt cổ anh ta cho đến chết xong cân lại.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā taṃ purisaṃ jīvantaṃyeva tulāya tuletvā jiyāya anassāsakaṃ māretvā punadeva tulāya tulenti.
Khi anh ta sống thì anh ta nhẹ, mềm mại, nhu nhuyến.
Yadā so jīvati, tadā lahutaro ca hoti mudutaro ca kammaññataro ca.
Khi anh ta chết, thì anh ta nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
Yadā pana so kālaṅkato hoti tadā garutaro ca hoti patthinnataro ca akammaññataro ca.
Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Này Tôn chủ, ví như người cân một hòn sắt được đốt nóng trọn ngày, cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, và một thời khác cũng đem cân hòn sắt ấy nhưng nay đã nguội lạnh.
Seyyathāpi, rājañña, puriso divasaṃ santattaṃ ayoguḷaṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ tulāya tuleyya.
Khi nào thì hòn sắt ấy nhẹ hơn, mềm mại hơn, hay nhu nhuyến hơn?
Tamenaṃ aparena samayena sītaṃ nibbutaṃ tulāya tuleyya.
Khi hòn sắt ấy đang cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực hay khi đã nguội lạnh?
Kadā nu kho so ayoguḷo lahutaro vā hoti mudutaro vā kammaññataro vā, yadā vā āditto sampajjalito sajotibhūto, yadā vā sīto nibbuto”ti?
Tôn giả Kassapa, khi hòn sắt ấy cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, khi ấy hòn sắt nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn.
“Yadā so, bho kassapa, ayoguḷo tejosahagato ca hoti vāyosahagato ca āditto sampajjalito sajotibhūto, tadā lahutaro ca hoti mudutaro ca kammaññataro ca.
Khi hòn sắt ấy không cháy đỏ, không hừng lửa, nguội lạnh rồi, khi đó hòn sắt nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
Yadā pana so ayoguḷo neva tejosahagato hoti na vāyosahagato sīto nibbuto, tadā garutaro ca hoti patthinnataro ca akammaññataro cā”ti.
Này Tôn chủ, khi thân này có tuổi thọ, có sức nặng, có thức thì nó nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn.
“Evameva kho, rājañña, yadāyaṃ kāyo āyusahagato ca hoti usmāsahagato ca viññāṇasahagato ca, tadā lahutaro ca hoti mudutaro ca kammaññataro ca.
Khi các thân này không có tuổi thọ, không có sức nóng và không có thức thời nó nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
Yadā panāyaṃ kāyo neva āyusahagato hoti na usmāsahagato na viññāṇasahagato tadā garutaro ca hoti patthinnataro ca akammaññataro ca.
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo ...pe...
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo ...pe...
Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Tôn giả Kassapa, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṃ āgucāriṃ gahetvā dassenti:
“Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṃ te, bhante, coro āgucārī;
Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṃ icchasi, taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti.
Tôi nói với họ như sau:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Các khanh, hãy giết người này bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy của anh ta”.
‘tena hi, bho, imaṃ purisaṃ anupahacca chaviñca cammañca maṃsañca nhāruñca aṭṭhiñca aṭṭhimiñjañca jīvitā voropetha, appeva nāmassa jīvaṃ nikkhamantaṃ passeyyāmā’ti.
Những người này vâng lời tôi và đáp: “Xin vâng, Tôn chủ!” rồi họ bèn giết người ấy bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā taṃ purisaṃ anupahacca chaviñca ...pe... jīvitā voropenti.
Khi người áy chết một phần nửa, tôi bảo họ:
Yadā so āmato hoti, tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Hãy lật ngược người này nằm ngửa, và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?”
‘tena hi, bho, imaṃ purisaṃ uttānaṃ nipātetha, appeva nāmassa jīvaṃ nikkhamantaṃ passeyyāmā’ti.
Họ lật ngược người này nằm ngửa,
Te taṃ purisaṃ uttānaṃ nipātenti.
và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra.
Nevassa mayaṃ jīvaṃ nikkhamantaṃ passāma.
Tôi lại bảo họ:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Hãy lật người này nằm cong lại...
‘tena hi, bho, imaṃ purisaṃ avakujjaṃ nipātetha ...
nằm phía một bên...
passena nipātetha ...
nằm phía bên kia...
dutiyena passena nipātetha ...
đặt người đó đứng thẳng...
uddhaṃ ṭhapetha ...
đặt người ấy đứng lộn đầu xuống...
omuddhakaṃ ṭhapetha ...
đánh người ấy với tay...
pāṇinā ākoṭetha ...
đánh người ấy với cục đất...
leḍḍunā ākoṭetha ...
đánh người ấy với gậy...
daṇḍena ākoṭetha ...
đánh người ấy với gươm...
satthena ākoṭetha ...
đánh anh ta phía bên này... đánh anh ta phía bên kia... đánh anh ta cùng khắp tất cả và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?
odhunātha sandhunātha niddhunātha, appeva nāmassa jīvaṃ nikkhamantaṃ passeyyāmā’ti.
Họ đánh anh ta phía bên này, đánh anh ta phía bên kia, đánh anh ta cùng khắp tất cả
Te taṃ purisaṃ odhunanti sandhunanti niddhunanti.
và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra.
Nevassa mayaṃ jīvaṃ nikkhamantaṃ passāma.
Anh ta có mắt và sắc pháp các mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Tassa tadeva cakkhu hoti te rūpā, tañcāyatanaṃ nappaṭisaṃvedeti.
Anh ta có tai và các tiếng có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Tadeva sotaṃ hoti te saddā, tañcāyatanaṃ nappaṭisaṃvedeti.
Anh ta có mũi và các hương mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Tadeva ghānaṃ hoti te gandhā, tañcāyatanaṃ nappaṭisaṃvedeti.
Anh ta có lưỡi và các vị có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Sāva jivhā hoti te rasā, tañcāyatanaṃ nappaṭisaṃvedeti.
Anh ta có thân và các xúc có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Sveva kāyo hoti te phoṭṭhabbā, tañcāyatanaṃ nappaṭisaṃvedeti.
Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa của lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Này Tôn chủ, thuở xưa có một người thổi tù và, cầm tù và bằng vỏ ốc và đi đến biên giới.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, aññataro saṅkhadhamo saṅkhaṃ ādāya paccantimaṃ janapadaṃ agamāsi.
Người ấy đi đến một làng kia, sau khi đến xong, đứng giữa làng, thổi ống tù và ba lần, đặt ống tù và xuống đất và ngồi xuống một bên.
So yena aññataro gāmo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā majjhe gāmassa ṭhito tikkhattuṃ saṅkhaṃ upalāpetvā saṅkhaṃ bhūmiyaṃ nikkhipitvā ekamantaṃ nisīdi.
Này Tôn chủ, những người dân ở biên giới ấy suy nghĩ:
Atha kho, rājañña, tesaṃ paccantajanapadānaṃ manussānaṃ etadahosi:
“Tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy.”
‘ambho kassa nu kho eso saddo evaṃrajanīyo evaṅkamanīyo evaṃmadanīyo evambandhanīyo evaṃmucchanīyo’ti.
Họ tụ họp lại và hỏi người thổi tù và:
Sannipatitvā taṃ saṅkhadhamaṃ etadavocuṃ:
“Này bạn, tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy?”
‘ambho, kassa nu kho eso saddo evaṃrajanīyo evaṅkamanīyo evaṃmadanīyo evambandhanīyo evaṃmucchanīyo’ti.
“Này các bạn, đây là cái tù và, và tiếng của tù và ấy khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy.”
‘Eso kho, bho, saṅkho nāma yasseso saddo evaṃrajanīyo evaṅkamanīyo evaṃmadanīyo evambandhanīyo evaṃmucchanīyo’ti.
Họ bèn đặt chiếc tù và nằm ngửa và nói:
Te taṃ saṅkhaṃ uttānaṃ nipātesuṃ:
“Hãy nói đi, bạn tù và! Hãy nói đi, bạn tù và!”
‘vadehi, bho saṅkha, vadehi, bho saṅkhā’ti.
Nhưng chiếc tù và ấy không nói tiếng gì hết.
Neva so saṅkho saddamakāsi.
Họ đặt chiếc tù và ấy nằm cong lại, nằm phía bên này, nằm phía bên kia... đặt đứng thẳng... đặt ngược đầu xuống... lấy tay đánh... lấy cục đấy đánh... lấy gậy đánh... lấy gươm đánh... đánh phía bên này... đánh phía bên kia... đánh cùng khắp tất cả và nói:
Te taṃ saṅkhaṃ avakujjaṃ nipātesuṃ, passena nipātesuṃ, dutiyena passena nipātesuṃ, uddhaṃ ṭhapesuṃ, omuddhakaṃ ṭhapesuṃ, pāṇinā ākoṭesuṃ, leḍḍunā ākoṭesuṃ, daṇḍena ākoṭesuṃ, satthena ākoṭesuṃ, odhuniṃsu sandhuniṃsu niddhuniṃsu:
“Này bạn tù và, hãy nói đi! Này bạn tù và, hãy nói đi!”
‘vadehi, bho saṅkha, vadehi, bho saṅkhā’ti.
Nhưng chiếc tù và ấy không nói gì cả.
Neva so saṅkho saddamakāsi.
Này Tôn chủ, rồi người thổi tù và suy nghĩ như sau:
Atha kho, rājañña, tassa saṅkhadhamassa etadahosi:
“Thật là ngu si, những người dân ở biên giới này! Sao lại đi tìm tiếng tù và một cách vô ý thức như vậy!”
‘yāva bālā ime paccantajanapadā manussā, kathañhi nāma ayoniso saṅkhasaddaṃ gavesissantī’ti.
Trong khi họ đang tìm kiếm như vậy, người thổi tù và cầm chiếc tù và lên, thổi lên ba lần rồi cầm chiếc tù và ra đi.
Tesaṃ pekkhamānānaṃ saṅkhaṃ gahetvā tikkhattuṃ saṅkhaṃ upalāpetvā saṅkhaṃ ādāya pakkāmi.
Này Tôn chủ, những người ở biên giới suy nghĩ như sau:
Atha kho, rājañña, tesaṃ paccantajanapadānaṃ manussānaṃ etadahosi:
“Này các bạn, chiếc tù và này, khi nào có người phụ trợ, có sự nỗ lực phụ trợ và có gió thổi phụ trợ, thì chiếc tù và phát ra tiếng. Khi nào chiếc tù và này không có người phụ trợ, không có sự nỗ lực phụ trợ và không có gió thổi phụ trợ thì chiếc tù và này không phát ra tiếng.”
‘yadā kira, bho, ayaṃ saṅkho nāma purisasahagato ca hoti vāyāmasahagato ca vāyusahagato ca, tadāyaṃ saṅkho saddaṃ karoti, yadā panāyaṃ saṅkho neva purisasahagato hoti na vāyāmasahagato na vāyusahagato, nāyaṃ saṅkho saddaṃ karotī’ti.
Cũng vậy, này Tôn chủ! Khi nào thân này có tuổi thọ phụ trợ, có hơi nóng phụ trợ và có thức phụ trợ, thời thân ấy đi tới, đi lui, đứng lên, ngồi xuống, nằm xuống, thời mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý biết pháp.
Evameva kho, rājañña, yadāyaṃ kāyo āyusahagato ca hoti usmāsahagato ca viññāṇasahagato ca, tadā abhikkamatipi paṭikkamatipi tiṭṭhatipi nisīdatipi seyyampi kappeti, cakkhunāpi rūpaṃ passati, sotenapi saddaṃ suṇāti, ghānenapi gandhaṃ ghāyati, jivhāyapi rasaṃ sāyati, kāyenapi phoṭṭhabbaṃ phusati, manasāpi dhammaṃ vijānāti.
Nhưng khi thân này không có tuổi thọ phụ trợ, không có hơi nóng phụ trợ, và không có thức phụ trợ, thời thân ấy không đi tới, không đi lui, không đứng lại, không ngồi xuống, không nằm xuống, thời mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi hương, lưỡi không nếm vị, thân không cảm xúc, ý không biết pháp.
Yadā panāyaṃ kāyo neva āyusahagato hoti, na usmāsahagato, na viññāṇasahagato, tadā neva abhikkamati na paṭikkamati na tiṭṭhati na nisīdati na seyyaṃ kappeti, cakkhunāpi rūpaṃ na passati, sotenapi saddaṃ na suṇāti, ghānenapi gandhaṃ na ghāyati, jivhāyapi rasaṃ na sāyati, kāyenapi phoṭṭhabbaṃ na phusati, manasāpi dhammaṃ na vijānāti.
Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṃ hotu:
“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho evaṃ me ettha hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo ...pe...
Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo ...pe...
Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṃ viya, rājaññā”ti?
Tôn giả Kassapa, nay có những người bắt được một tên ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṃ āgucāriṃ gahetvā dassenti:
“Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṃ te, bhante, coro āgucārī,
Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṃ icchasi, taṃ daṇḍaṃ paṇehī’ti.
Tôi nói với họ như sau:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Các khanh hãy lột da anh ta, để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta.”
‘tena hi, bho, imassa purisassa chaviṃ chindatha, appeva nāmassa jīvaṃ passeyyāmā’ti.
Chúng lột da của người ấy
Te tassa purisassa chaviṃ chindanti.
nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta.
Nevassa mayaṃ jīvaṃ passāma.
Rồi tôi bảo họ:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:
“Các khanh hãy lột da trong của người ấy... cắt thịt... cắt gân... cắt xương... đẽo cho đến xương tủy để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta.”
‘tena hi, bho, imassa purisassa cammaṃ chindatha, maṃsaṃ chindatha, nhāruṃ chindatha, aṭṭhiṃ chindatha, aṭṭhimiñjaṃ chindatha, appeva nāmassa jīvaṃ passeyyāmā’ti.
Họ đẽo cho đến xương tủy của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta.
Te tassa purisassa aṭṭhimiñjaṃ chindanti, nevassa mayaṃ jīvaṃ passeyyāma.
Này Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṃ hoti:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti.
Này Tôn chủ, tôi sẽ cho một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Ở đời một số người có trí thức, nhờ ví dụ hiểu được ý nghĩa câu nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Này Tôn chủ, thuở xưa có người bện tóc thờ lửa, sống trong một ngôi nhà lá, tại một khu rừng.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, aññataro aggiko jaṭilo araññāyatane paṇṇakuṭiyā sammati.
Này Tôn chủ, một số dân chúng di cư đến đấy.
Atha kho, rājañña, aññataro janapade sattho vuṭṭhāsi.
Vị lãnh đạo của chúng, sau một đêm ở xung quanh cái cốc của người bện tóc thờ lửa bèn bỏ đi.
Atha kho so sattho tassa aggikassa jaṭilassa assamassa sāmantā ekarattiṃ vasitvā pakkāmi.
Này Tôn chủ, người bện tóc thờ lửa suy nghĩ:
Atha kho, rājañña, tassa aggikassa jaṭilassa etadahosi:
“Nếu ta đến chỗ ở của người lãnh đạo, ta có thể kiếm được một vài đồ vật hữu dụng ở đó.”
‘yannūnāhaṃ yena so satthavāso tenupasaṅkameyyaṃ, appeva nāmettha kiñci upakaraṇaṃ adhigaccheyyan’ti.
Rồi người bện tóc thở lửa, dậy sớm đến chỗ ở của người lãnh đạo, và thấy một đứa hài nhi bị quăng nằm ngửa ở đó.
Atha kho so aggiko jaṭilo kālasseva vuṭṭhāya yena so satthavāso tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā addasa tasmiṃ satthavāse daharaṃ kumāraṃ mandaṃ uttānaseyyakaṃ chaḍḍitaṃ.
Thấy vậy vị ấy nghĩ:
Disvānassa etadahosi:
“Thật không phải chút nào nếu ta để một hài nhi phải chết trong khi ta đang tìm kiếm.
‘na kho me taṃ patirūpaṃ yaṃ me pekkhamānassa manussabhūto kālaṅkareyya;
Ta hãy đem hài nhi này về cốc của ta, nuôi nó, săn sóc nó, cấp dưỡng nó”.
yannūnāhaṃ imaṃ dārakaṃ assamaṃ netvā āpādeyyaṃ poseyyaṃ vaḍḍheyyan’ti.
Rồi người bện tóc thờ lửa ấy đem đứa hài nhi ấy về cốc nuôi nó, săn sóc nó, cấp dưỡng nó.
Atha kho so aggiko jaṭilo taṃ dārakaṃ assamaṃ netvā āpādesi posesi vaḍḍhesi.
Khi đứa trẻ đến tuổi mười hay mười hai, người bện tóc thờ lửa có công việc phải đi xuống đồng bằng.
Yadā so dārako dasavassuddesiko vā hoti dvādasavassuddesiko vā, atha kho tassa aggikassa jaṭilassa janapade kañcideva karaṇīyaṃ uppajji.
Người bện tóc thờ lửa bảo đứa trẻ ấy:
Atha kho so aggiko jaṭilo taṃ dārakaṃ etadavoca:
Này con, ta muốn đi xuống đồng bằng,
‘icchāmahaṃ, tāta, janapadaṃ gantuṃ;
hãy chăm sóc ngọn lửa,
aggiṃ, tāta, paricareyyāsi.
đừng để nó tắt.
Mā ca te aggi nibbāyi.
Nếu lửa có tắt, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa, hãy nhen lửa lại và chăm sóc ngọn lửa”.
Sace ca te aggi nibbāyeyya, ayaṃ vāsī imāni kaṭṭhāni idaṃ araṇisahitaṃ, aggiṃ nibbattetvā aggiṃ paricareyyāsī’ti.
Người bện tóc thờ lửa ấy, sau khi căn dặn đứa trẻ, bèn đi xuống đồng bằng.
Atha kho so aggiko jaṭilo taṃ dārakaṃ evaṃ anusāsitvā janapadaṃ agamāsi.
Ðứa trẻ mãi ham vui đùa khiến lửa tắt.
Tassa khiḍḍāpasutassa aggi nibbāyi.
Ðứa trẻ suy nghĩ:
Atha kho tassa dārakassa etadahosi:
“Cha ta có bảo ta: “Hãy chăm sóc ngọn lửa. Đừng để nó tắt.
‘pitā kho maṃ evaṃ avaca: “aggiṃ, tāta, paricareyyāsi. Mā ca te aggi nibbāyi.
Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa lại.”
Sace ca te aggi nibbāyeyya, ayaṃ vāsī imāni kaṭṭhāni idaṃ araṇisahitaṃ, aggiṃ nibbattetvā aggiṃ paricareyyāsī”ti.
Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa.”
Yannūnāhaṃ aggiṃ nibbattetvā aggiṃ paricareyyan’ti.
Rồi đứa trẻ ấy lấy búa chẻ đồ quây lửa với ý nghĩ:
Atha kho so dārako araṇisahitaṃ vāsiyā tacchi:
“Ta sẽ tìm thấy lửa.”
‘appeva nāma aggiṃ adhigaccheyyan’ti.
Nhưng lửa không có.
Neva so aggiṃ adhigacchi.
Nó đem chẻ đồ quây lửa làm hai, làm ba, làm bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi đã giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với ý nghĩ:
Araṇisahitaṃ dvidhā phālesi, tidhā phālesi, catudhā phālesi, pañcadhā phālesi, dasadhā phālesi, satadhā phālesi, sakalikaṃ sakalikaṃ akāsi, sakalikaṃ sakalikaṃ karitvā udukkhale koṭṭesi, udukkhale koṭṭetvā mahāvāte opuni:
“Ta sẽ tìm thấy lửa.”
‘appeva nāma aggiṃ adhigaccheyyan’ti.
Nhưng lửa không có.
Neva so aggiṃ adhigacchi.
Người bện tóc sau khi làm xong công việc ở đồng bằng, liền về cốc của mình và hỏi đứa bé:
Atha kho so aggiko jaṭilo janapade taṃ karaṇīyaṃ tīretvā yena sako assamo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ dārakaṃ etadavoca:
“Này con, sao con để tắt lửa thế này?”
‘kacci te, tāta, aggi na nibbuto’ti?
“Thưa cha, con mãi ham chơi nên để lửa tắt.
‘Idha me, tāta, khiḍḍāpasutassa aggi nibbāyi.
Rồi con suy nghĩ: “Cha đã bảo ta: “Hãy chăm sóc ngọn lửa. Đừng để tắt nó.
Tassa me etadahosi: “pitā kho maṃ evaṃ avaca: aggiṃ, tāta, paricareyyāsi. Mā ca te, tāta, aggi nibbāyi.
Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quây để nhen lửa lại”.
Sace ca te aggi nibbāyeyya, ayaṃ vāsī imāni kaṭṭhāni idaṃ araṇisahitaṃ, aggiṃ nibbattetvā aggiṃ paricareyyāsīti.
Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa”.
Yannūnāhaṃ aggiṃ nibbattetvā aggiṃ paricareyyan”ti.
Thưa cha, rồi con lấy búa nhỏ chẻ đồ quây lửa với ý nghĩ:
Atha khvāhaṃ, tāta, araṇisahitaṃ vāsiyā tacchiṃ:
“Ta sẽ tìm ra lửa.”
“appeva nāma aggiṃ adhigaccheyyan”ti.
Nhưng con tìm không được lửa.
Nevāhaṃ aggiṃ adhigacchiṃ.
Con đem chẻ đồ quây lửa, làm hai, làm ba, lám bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với ý nghĩ:
Araṇisahitaṃ dvidhā phālesiṃ, tidhā phālesiṃ, catudhā phālesiṃ, pañcadhā phālesiṃ, dasadhā phālesiṃ, satadhā phālesiṃ, sakalikaṃ sakalikaṃ akāsiṃ, sakalikaṃ sakalikaṃ karitvā udukkhale koṭṭesiṃ, udukkhale koṭṭetvā mahāvāte opuniṃ:
“Ta sẽ tìm ra lửa,”
“appeva nāma aggiṃ adhigaccheyyan”ti.
nhưng con không tìm được lửa”.
Nevāhaṃ aggiṃ adhigacchin’ti.
Rồi người bện tóc thờ lửa ấy suy nghĩ:
Atha kho tassa aggikassa jaṭilassa etadahosi:
“Ðứa trẻ này thật ngu si và kém thông minh. Sao lại đi tìm lửa một cách thiếu suy tư như thế này?”
‘yāva bālo ayaṃ dārako abyatto, kathañhi nāma ayoniso aggiṃ gavesissatī’ti.
Trong khi đứa trẻ đứng nhìn, người ấy cầm đồ quây lửa, nhen lửa lên và nói với đứa trẻ:
Tassa pekkhamānassa araṇisahitaṃ gahetvā aggiṃ nibbattetvā taṃ dārakaṃ etadavoca:
“Này con, nhen lửa phải làm như vậy đó
‘evaṃ kho, tāta, aggi nibbattetabbo.
chớ không phải như con ngu si và kém thông minh, tìm lửa một cách thiếu suy tư.”
Na tveva yathā tvaṃ bālo abyatto ayoniso aggiṃ gavesī’ti.
Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài ngu si, kém thông minh, đi tìm đời sau một cách kém suy tư.
Evameva kho tvaṃ, rājañña, bālo abyatto ayoniso paralokaṃ gavesissasi.
Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác kiến ấy!
Paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ; paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ.
Chớ có tự dấn thân vào sự bất an và đau khổ trường kỳ.
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, Tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṃ sakkomi idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjituṃ.
Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau:
Rājāpi maṃ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi:
“Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này:
‘pāyāsi rājañño evaṃvādī evaṃdiṭṭhī:
“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko”’ti.
Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṃ, bho kassapa, idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:
“Tôn chủ Pàyà thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.”
‘yāva bālo pāyāsi rājañño abyatto duggahitagāhī’ti.
Vì tức giận, nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.
Kopenapi naṃ harissāmi, makkhenapi naṃ harissāmi, palāsenapi naṃ harissāmī”ti.
Vậy này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Ở đời một số người có trí, nhờ ví dụ mà hiểu ý nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Này Tôn chủ, thuở xưa, một đoàn lữ hành lớn gồm một ngàn cỗ xe đi từ phương Ðông quốc độ qua phương Tây quốc độ.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, mahāsakaṭasattho sakaṭasahassaṃ puratthimā janapadā pacchimaṃ janapadaṃ agamāsi.
Ði đến chỗ nào, đoàn lữ hành ấy cũng tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi.
So yena yena gacchi, khippaṃyeva pariyādiyati tiṇakaṭṭhodakaṃ haritakapaṇṇaṃ.
Ðoàn lữ hành ấy có hai vị lãnh đạo, một vị lãnh đạo năm trăm cỗ xe, một vị lãnh đạo năm trăm cỗ xe.
Tasmiṃ kho pana satthe dve satthavāhā ahesuṃ eko pañcannaṃ sakaṭasatānaṃ, eko pañcannaṃ sakaṭasatānaṃ.
Hai vị lãnh đạo đoàn lữ hành suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ satthavāhānaṃ etadahosi:
“Ðoàn lữ hành lớn này gồm có một ngàn cỗ xe.
‘ayaṃ kho mahāsakaṭasattho sakaṭasahassaṃ;
Chỗ nào chúng ta đi tới thì đoàn tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi.
te mayaṃ yena yena gacchāma, khippameva pariyādiyati tiṇakaṭṭhodakaṃ haritakapaṇṇaṃ.
Vậy chúng ta hãy chia đoàn lữ hành này thành hai, mỗi đoàn có năm trăm cỗ xe.”
Yannūna mayaṃ imaṃ satthaṃ dvidhā vibhajeyyāma— ekato pañca sakaṭasatāni ekato pañca sakaṭasatānī’ti.
Rồi hai vị lãnh đạo ấy chia đoàn lữ hành thành hai, một đoàn có năm trăm cỗ xe, một đoàn có năm trăm cỗ xe.
Te taṃ satthaṃ dvidhā vibhajiṃsu ekato pañca sakaṭasatāni, ekato pañca sakaṭasatāni.
Rồi một vị lãnh đạo thâu lượm rất nhiều cỏ, củi, nước và cho đoàn lữ hành chuyển bánh.
Eko satthavāho bahuṃ tiṇañca kaṭṭhañca udakañca āropetvā satthaṃ payāpesi.
Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xe dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy, người lãnh đạo hỏi:
Dvīhatīhapayāto kho pana so sattho addasa purisaṃ kāḷaṃ lohitakkhaṃ sannaddhakalāpaṃ kumudamāliṃ allavatthaṃ allakesaṃ kaddamamakkhitehi cakkehi bhadrena rathena paṭipathaṃ āgacchantaṃ, disvā etadavoca:
Bạn từ phương nào đến?
‘kuto, bho, āgacchasī’ti?
Từ nơi quốc độ kia đến.
‘Amukamhā janapadā’ti.
Bạn sẽ đi đâu?
‘Kuhiṃ gamissasī’ti?
Sẽ đi đến địa phương tên này.
‘Amukaṃ nāma janapadan’ti.
Bạn có thấy, trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?
‘Kacci, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho’ti?
Thưa bạn, trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường xá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
‘Evaṃ, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho, āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.
Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.”
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṃ sīghaṃ gacchatha, mā yoggāni kilamitthā’ti.
Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe:
Atha kho so satthavāho satthike āmantesi:
Này các Bạn, người này nói như sau:
‘ayaṃ, bho, puriso evamāha:
“Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
“purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho, āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.
Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.”
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṃ sīghaṃ gacchatha, mā yoggāni kilamitthā”ti.
Vậy các bạn hãy quăng cỏ, củi và nước cũ đi, để đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi satthaṃ payāpethā’ti.
Thưa Bạn, vâng! Những người đánh xe vâng theo lời vị lãnh đạo đoàn lữ hành, quăng cỏ, củi và nước cũ đi và dẫn đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.
‘Evaṃ, bho’ti kho te satthikā tassa satthavāhassa paṭissutvā chaḍḍetvā purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni lahubhārehi sakaṭehi satthaṃ payāpesuṃ.
Nhưng khi đi đến trạm nghỉ thứ nhất, họ không thấy cỏ, củi hay nước,
Te paṭhamepi satthavāse na addasaṃsu tiṇaṃ vā kaṭṭhaṃ vā udakaṃ vā.
trạm thứ hai cũng vậy...
Dutiyepi satthavāse ...
trạm thứ ba cũng vậy...
tatiyepi satthavāse ...
trạm thứ tư cũng vậy...
catutthepi satthavāse ...
trạm thứ năm cũng vậy...
pañcamepi satthavāse ...
trạm thứ sáu cũng vậy...
chaṭṭhepi satthavāse ...
trạm thứ bảy cũng vậy, họ không thấy cỏ, củi hay nước.
sattamepi satthavāse na addasaṃsu tiṇaṃ vā kaṭṭhaṃ vā udakaṃ vā.
Tất cả đều gặp sự bất hạnh và tai nạn.
Sabbeva anayabyasanaṃ āpajjiṃsu.
Tất cả người và vật trong lữ đoàn ấy, đều bị Dạ xoa, phi nhân ăn thịt,
Ye ca tasmiṃ satthe ahesuṃ manussā vā pasū vā, sabbe so yakkho amanusso bhakkhesi.
chỉ còn xương để lại.
Aṭṭhikāneva sesāni.
Khi người lãnh đạo đoàn thứ hai được biết:
Yadā aññāsi dutiyo satthavāho:
“Nay đoàn kia đi đã khá xa”, bèn cho thâu lượm nhiều cỏ, củi và nước và cho đoàn khởi hành.
‘bahunikkhanto kho, bho, dāni so sattho’ti bahuṃ tiṇañca kaṭṭhañca udakañca āropetvā satthaṃ payāpesi.
Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xa dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy người lãnh đạo hỏi:
Dvīhatīhapayāto kho pana so sattho addasa purisaṃ kāḷaṃ lohitakkhaṃ sannaddhakalāpaṃ kumudamāliṃ allavatthaṃ allakesaṃ kaddamamakkhitehi cakkehi bhadrena rathena paṭipathaṃ āgacchantaṃ, disvā etadavoca:
Bạn từ phương nào đến?
‘kuto, bho, āgacchasī’ti?
Từ nơi quốc độ kia đến.
‘Amukamhā janapadā’ti.
‘Bạn sẽ đi đâu?
‘Kuhiṃ gamissasī’ti?
Sẽ đi đến địa phương tên này.
‘Amukaṃ nāma janapadan’ti.
Bạn có thấy trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?
‘Kacci, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho’ti?
Thưa Bạn, trong khu rừng trước mặt, có mưa to, đường sá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
‘Evaṃ, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho. Āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.
Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṃ sīghaṃ gacchatha, mā yoggāni kilamitthā’ti.
Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe:
Atha kho so satthavāho satthike āmantesi:
Này các Bạn, người này nói như sau:
‘ayaṃ, bho, puriso evamāha:
Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
“purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho, āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.
Hãy bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cổ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ làm cho đoàn xe mệt nhọc.”
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṃ sīghaṃ gacchatha; mā yoggāni kilamitthā”ti.
Nhưng này các Bạn, người ấy không phải là bạn của chúng ta, cũng không phải là bà con ruột thịt, làm sao chúng ta có thể tin người ấy được?
Ayaṃ bho puriso neva amhākaṃ mitto, na ñātisālohito, kathaṃ mayaṃ imassa saddhāya gamissāma.
Chớ quăng bỏ các thứ cỏ, củi và nước đã dự trữ từ trước. Hãy cho đoàn lữ hành tiến tới với các hàng hóa đã được mang theo,
Na vo chaḍḍetabbāni purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, yathābhatena bhaṇḍena satthaṃ payāpetha.
chúng ta không quăng bỏ đi các vật đang dự trữ từ trước.
Na no purāṇaṃ chaḍḍessāmā’ti.
Thưa Bạn, vâng. Những người đánh xe ấy, vâng theo lời người lãnh đạo, cho đoàn lữ hành tiến tới với những hàng hóa đã mang theo.
‘Evaṃ, bho’ti kho te satthikā tassa satthavāhassa paṭissutvā yathābhatena bhaṇḍena satthaṃ payāpesuṃ.
Ðến trạm nghĩ thứ nhất những người này không thấy cỏ, củi hay nước,
Te paṭhamepi satthavāse na addasaṃsu tiṇaṃ vā kaṭṭhaṃ vā udakaṃ vā.
đến trạm thứ hai cũng vậy...
Dutiyepi satthavāse ...
trạm thứ ba cũng vậy...
tatiyepi satthavāse ...
trạm thứ tư cũng vậy....
catutthepi satthavāse ...
trạm thứ năm cũng vậy...
pañcamepi satthavāse ...
trạm thứ sáu cũng vậy...
chaṭṭhepi satthavāse ...
trạm thứ bảy cũng vậy, chúng không thấy cỏ, củi hay nước,
sattamepi satthavāse na addasaṃsu tiṇaṃ vā kaṭṭhaṃ vā udakaṃ vā.
nhưng chúng thấy đoàn lữ hành trước bị lâm vào tai nạn.
Tañca satthaṃ addasaṃsu anayabyasanaṃ āpannaṃ.
Những người và thú vật trong đoàn lữ hành kia, chúng thấy các bộ xương do con Dạ xoa phi nhân ấy ăn thịt.
Ye ca tasmiṃ satthepi ahesuṃ manussā vā pasū vā, tesañca aṭṭhikāneva addasaṃsu tena yakkhena amanussena bhakkhitānaṃ.
Rồi người lãnh đạo nói với các người đánh xe:
Atha kho so satthavāho satthike āmantesi:
Này các Bạn, đoàn lữ hành ấy bị lâm nạn vì bị người lãnh đạo ngu si như vậy hướng dẫn.
‘ayaṃ kho, bho, sattho anayabyasanaṃ āpanno, yathā taṃ tena bālena satthavāhena pariṇāyakena.
Vậy này các bạn, hãy bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành này, hãy đem theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia!
Tena hi, bho, yānamhākaṃ satthe appasārāni paṇiyāni, tāni chaḍḍetvā, yāni imasmiṃ satthe mahāsārāni paṇiyāni, tāni ādiyathā’ti.
Thưa Bạn, vâng! Những người đánh xe ấy vâng theo người lãnh đạo quăng bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành của mình, đem đi theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia và đi qua bãi sa mạc ấy một cách an toàn, vì được hướng dẫn bởi một vị lãnh đạo sáng suốt.
‘Evaṃ, bho’ti kho te satthikā tassa satthavāhassa paṭissutvā yāni sakasmiṃ satthe appasārāni paṇiyāni, tāni chaḍḍetvā yāni tasmiṃ satthe mahāsārāni paṇiyāni, tāni ādiyitvā sotthinā taṃ kantāraṃ nitthariṃsu, yathā taṃ paṇḍitena satthavāhena pariṇāyakena.
Cũng vậy này Tôn chủ, người ngu si không có trí sẽ gặp nạn vì đã đi tìm kiếm đời sau một cách thiếu suy tư, giống như người lãnh đạo đoàn lữ hành kia.
Evameva kho tvaṃ, rājañña, bālo abyatto anayabyasanaṃ āpajjissasi ayoniso paralokaṃ gavesanto, seyyathāpi so purimo satthavāho.
Những ai tự nghĩ có thể tin bất cứ điều gì được nghe sẽ gặp hoạn nạn như những người đánh xe kia.
Yepi tava sotabbaṃ saddhātabbaṃ maññissanti, tepi anayabyasanaṃ āpajjissanti, seyyathāpi te satthikā.
Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, bãy từ bỏ ác tà kiến này.
Paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ; paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ.
Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ bất hạnh lâu dài!”
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṃ sakkomi idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjituṃ.
Vua Pasenadi nước Kosala là vua các nước ngoài đã biết tôi như sau:
Rājāpi maṃ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi: ‘pāyāsi rājañño evaṃvādī evaṃdiṭṭhī:
“Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này:”Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“itipi natthi paro loko ...pe... vipāko”’ti.
Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṃ, bho kassapa, idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:
“Tôn chủ Pāyāsi thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.”
‘yāva bālo pāyāsi rājañño, abyatto duggahitagāhī’ti.
Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến sai lạc. Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.
Kopenapi naṃ harissāmi, makkhenapi naṃ harissāmi, palāsenapi naṃ harissāmī”ti.
Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi.
Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Thuở xưa có một người nuôi heo đi từ làng của mình đến một làng khác.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, aññataro sūkaraposako puriso sakamhā gāmā aññaṃ gāmaṃ agamāsi.
Ở tại đấy, ông ta thấy một đống phân khô bị quăng bỏ.
Tattha addasa pahūtaṃ sukkhagūthaṃ chaḍḍitaṃ.
Thấy vậy, nó tự nghĩ:
Disvānassa etadahosi:
“Ðống phân khô khá nhiều bị quăng bỏ đi có thể làm đồ ăn cho các con heo của ta.
‘ayaṃ kho pahūto sukkhagūtho chaḍḍito, mama ca sūkarabhattaṃ;
Vậy ta hãy mang đống phân khô này đi.”
yannūnāhaṃ ito sukkhagūthaṃ hareyyan’ti.
Rồi ông ta trải áo choàng của nó mang đống phân khô lại, cột thành một gói đặt trên đầu rồi đi.
So uttarāsaṅgaṃ pattharitvā pahūtaṃ sukkhagūthaṃ ākiritvā bhaṇḍikaṃ bandhitvā sīse ubbāhetvā agamāsi.
Ði giữa đường, một cơn mưa lớn trái mùa xẩy ra.
Tassa antarāmagge mahāakālamegho pāvassi.
Ông mang bọc phân ấy đi, với phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm ông lem lấm phân cho đến đầu móng tay.
So uggharantaṃ paggharantaṃ yāva agganakhā gūthena makkhito gūthabhāraṃ ādāya agamāsi.
Mọi người thấy ông liền nói:
Tamenaṃ manussā disvā evamāhaṃsu:
“Ông có thật sự điên, thật sự khùng chăng? Làm sao ông lại mang bọc phân ấy đi, với nước phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm người lem lấm phân cho đến đầu móng tay.”
‘kacci no tvaṃ, bhaṇe, ummatto, kacci viceto, kathañhi nāma uggharantaṃ paggharantaṃ yāva agganakhā gūthena makkhito gūthabhāraṃ harissasī’ti.
Chính các Người mới thật sự điên, chính các Người mới thật sự khùng. Chính nhờ như thế này, các con heo của tôi mới có đồ ăn.”
‘Tumhe khvettha, bhaṇe, ummattā, tumhe vicetā, tathā hi pana me sūkarabhattan’ti.
Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người mang phân này.
Evameva kho tvaṃ, rājañña, gūthabhārikūpamo maññe paṭibhāsi.
Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác kiến ấy.
Paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ; paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ.
Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṃ sakkomi idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjituṃ.
Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau:
Rājāpi maṃ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi:
“Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘pāyāsi rājañño evaṃvādī evaṃdiṭṭhī: “itipi natthi paro loko ...pe... vipāko”’ti.
Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṃ, bho kassapa, idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:
“Tôn chủ Pāyāsi thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.”
‘yāva bālo pāyāsi rājañño abyatto duggahitagāhī’ti.
Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.
Kopenapi naṃ harissāmi, makkhenapi naṃ harissāmi, palāsenapi naṃ harissāmī”ti.
Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi,
Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Thuở xưa, có hai người đánh bạc đổ con xúc xắc.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, dve akkhadhuttā akkhehi dibbiṃsu.
Một con bạc mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại.
Eko akkhadhutto āgatāgataṃ kaliṃ gilati.
Con bạc thứ hai thấy con bạc ấy mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Thấy vậy người này bàn với người kia:
Addasā kho dutiyo akkhadhutto taṃ akkhadhuttaṃ āgatāgataṃ kaliṃ gilantaṃ, disvā taṃ akkhadhuttaṃ etadavoca:
“Này Bạn, Bạn đã thắng rõ ràng. Bạn hãy đưa cho tôi các con xúc xắc để đi làm lễ tế.”
‘tvaṃ kho, samma, ekantikena jināsi, dehi me, samma, akkhe pajohissāmī’ti.
“Thưa Bạn, vâng!”, con bạc ấy liền đưa các con xúc xắc cho con bạc kia.
‘Evaṃ, sammā’ti kho so akkhadhutto tassa akkhadhuttassa akkhe pādāsi.
Người này bèn lấy thuốc độc thoa vào các con xúc xắc và nói với người kia:
Atha kho so akkhadhutto akkhe visena paribhāvetvā taṃ akkhadhuttaṃ etadavoca:
“Này Bạn, hãy chơi đổ các con xúc xắc.”
‘ehi kho, samma, akkhehi dibbissāmā’ti.
“Thưa Bạn, vâng!”, con bạc ấy vâng theo lời của con bạc kia.
‘Evaṃ, sammā’ti kho so akkhadhutto tassa akkhadhuttassa paccassosi.
Lần thứ hai, hai con bạc ấy đổ con xúc xắc,
Dutiyampi kho te akkhadhuttā akkhehi dibbiṃsu.
lần thứ hai , con bạc này mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại.
Dutiyampi kho so akkhadhutto āgatāgataṃ kaliṃ gilati.
Con bạc thứ hai thấy con bạc kia, lần thứ hai, mỗi lần thua ngậm con xúc xắc thất bại. Thấy vậy, người ấy nói với con bạc kia:
Addasā kho dutiyo akkhadhutto taṃ akkhadhuttaṃ dutiyampi āgatāgataṃ kaliṃ gilantaṃ, disvā taṃ akkhadhuttaṃ etadavoca:
Con người không được biết.
Con xúc xắc được ngậm,
Ðã được bôi thoa nhiều,
Với thuốc độc đốt cháy.
Hãy ngậm đi, ngậm đi,
Con bạc ác độc kia!
Ngậm xong nhà Ngươi phải
Ðau đớn vô cùng tận.
‘Littaṃ paramena tejasā,
Gilamakkhaṃ puriso na bujjhati;
Gila re gila pāpadhuttaka,
Pacchā te kaṭukaṃ bhavissatī’ti.
Cũng vậy này Tôn chủ. Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người đánh bạc.
Evameva kho tvaṃ, rājañña, akkhadhuttakūpamo maññe paṭibhāsi.
Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy.
Paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ; paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ.
Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti.
Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṃ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṃ sakkomi idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjituṃ.
Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: “Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo!”
Rājāpi maṃ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi: ‘pāyāsi rājañño evaṃvādī evaṃdiṭṭhī: “itipi natthi paro loko ...pe... vipāko”’ti.
Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy, người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṃ, bho kassapa, idaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:
“Tôn chủ Pāyāsi thật ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc”.
‘yāva bālo pāyāsi rājañño abyatto duggahitagāhī’ti.
Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lường gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy!
Kopenapi naṃ harissāmi, makkhenapi naṃ harissāmi, palāsenapi naṃ harissāmī”ti.
“Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṃ te karissāmi,
Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Thuở xưa, một quốc gia dời đi chỗ khác.
Bhūtapubbaṃ, rājañña, aññataro janapado vuṭṭhāsi.
Một người nói với các bạn thuộc hạ của mình:
Atha kho sahāyako sahāyakaṃ āmantesi:
“Này các Bạn, chúng ta hãy đi đến quốc gia kia, rất có thể chúng ta tìm được tiền bạc của cải.”
‘āyāma, samma, yena so janapado tenupasaṅkamissāma, appeva nāmettha kiñci dhanaṃ adhigaccheyyāmā’ti.
“Thưa Bạn, vâng!”, các thuộc hạ vâng lời người bạn kia.
‘Evaṃ, sammā’ti kho sahāyako sahāyakassa paccassosi.
Họ đi đến quốc gia kia, và đến một đường làng. Họ thấy một đống gai, quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với các người kia:
Te yena so janapado, yena aññataraṃ gāmapaṭṭaṃ tenupasaṅkamiṃsu, tattha addasaṃsu pahūtaṃ sāṇaṃ chaḍḍitaṃ, disvā sahāyako sahāyakaṃ āmantesi:
“Ðây là một đống gai quăng bỏ. Bạn hãy nhóm lại thành một bó. Tôi cũng nhóm lại thành một bó gai. Chúng ta hãy đem bó gai ấy đi.”
‘idaṃ kho, samma, pahūtaṃ sāṇaṃ chaḍḍitaṃ, tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṃ bandha, ahañca sāṇabhāraṃ bandhissāmi, ubho sāṇabhāraṃ ādāya gamissāmā’ti.
“Thưa Bạn, vâng!”, người bạn này vâng theo người bạn kia và cột bó gai lại. Họ mang hai bó gai, và đi đến một làng khác.
‘Evaṃ, sammā’ti kho sahāyako sahāyakassa paṭissutvā sāṇabhāraṃ bandhitvā te ubho sāṇabhāraṃ ādāya yena aññataraṃ gāmapaṭṭaṃ tenupasaṅkamiṃsu.
Họ thấy một đống dây gai quăng bỏ. Thấy vậy một người bạn nói với người kia:
Tattha addasaṃsu pahūtaṃ sāṇasuttaṃ chaḍḍitaṃ, disvā sahāyako sahāyakaṃ āmantesi:
“Ðống dây gai quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với bó dây gai ấy.
‘yassa kho, samma, atthāya iccheyyāma sāṇaṃ, idaṃ pahūtaṃ sāṇasuttaṃ chaḍḍitaṃ.
Vậy bạn hãy nhóm lại thành một bó dây gai. Tôi cũng nhóm lại thành một bó dây gai. Chúng ta hãy đem hai bó dây gai ấy đi.”
Tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṃ chaḍḍehi, ahañca sāṇabhāraṃ chaḍḍessāmi, ubho sāṇasuttabhāraṃ ādāya gamissāmā’ti.
“Này Bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại, và đống dây gai được bó buộc kỹ lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ, bạn hãy tự biết (mà làm).”
‘Ayaṃ kho me, samma, sāṇabhāro dūrābhato ca susannaddho ca, alaṃ me, tvaṃ pajānāhī’ti.
Và người bạn trước quăng bó dây gai và lấy đống dây gai.
Atha kho so sahāyako sāṇabhāraṃ chaḍḍetvā sāṇasuttabhāraṃ ādiyi.
Rồi họ đến một con đường khác.
Te yena aññataraṃ gāmapaṭṭaṃ tenupasaṅkamiṃsu.
Ở đấy họ thấy nhiều vải gai được quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với người kia:
Tattha addasaṃsu pahūtā sāṇiyo chaḍḍitā, disvā sahāyako sahāyakaṃ āmantesi:
“Nhiều vải gai được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hoặc với dây gai.
‘yassa kho, samma, atthāya iccheyyāma sāṇaṃ vā sāṇasuttaṃ vā, imā pahūtā sāṇiyo chaḍḍitā.
Vậy Bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao dây gai. Hai chúng ta sẽ mang bao vải gai này mà đi.”
Tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṃ chaḍḍehi, ahañca sāṇasuttabhāraṃ chaḍḍessāmi, ubho sāṇibhāraṃ ādāya gamissāmā’ti.
“Này Bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại và đống dây gai được buộc bó kỹ lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm).”
‘Ayaṃ kho me, samma, sāṇabhāro dūrābhato ca susannaddho ca, alaṃ me, tvaṃ pajānāhī’ti.
Và người bạn trước quăng bỏ dây gai và lấy bó vải gai.
Atha kho so sahāyako sāṇasuttabhāraṃ chaḍḍetvā sāṇibhāraṃ ādiyi.
Rồi họ đến một con đường khác.
Te yena aññataraṃ gāmapaṭṭaṃ tenupasaṅkamiṃsu.
nhiều đống lanh (linen) được quăng bỏ, sau khi thấy...
Tattha addasaṃsu pahūtaṃ khomaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...pe...
nhiều dây lanh được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ khomasuttaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều vải lanh được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ khomadussaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều sợi bông được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ kappāsaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều cây bông được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ kappāsikasuttaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều vải bông được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ kappāsikadussaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều sắt được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ ayaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều đồng được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ lohaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều thiếc được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ tipuṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều chì được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ sīsaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều bạc được quăng bỏ, sau khi thấy...
pahūtaṃ sajjhaṃ chaḍḍitaṃ, disvā ...
nhiều vàng được quăng bỏ. Sau khi thấy một người bạn nói với người bạn kia:
pahūtaṃ suvaṇṇaṃ chaḍḍitaṃ, disvā sahāyako sahāyakaṃ āmantesi:
“Nhiều vàng được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hay với dây gai, hay với vải lanh, hay với cây bông, hay với vải bông, hay với sắt, hay với đồng, hay với thiếc, hay với chì, hay với bạc.
‘yassa kho, samma, atthāya iccheyyāma sāṇaṃ vā sāṇasuttaṃ vā sāṇiyo vā khomaṃ vā khomasuttaṃ vā khomadussaṃ vā kappāsaṃ vā kappāsikasuttaṃ vā kappāsikadussaṃ vā ayaṃ vā lohaṃ vā tipuṃ vā sīsaṃ vā sajjhaṃ vā, idaṃ pahūtaṃ suvaṇṇaṃ chaḍḍitaṃ.
Vậy bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao bạc. Hai chúng ta sẽ mang bao vàng mà đi.”
Tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṃ chaḍḍehi, ahañca sajjhabhāraṃ chaḍḍessāmi, ubho suvaṇṇabhāraṃ ādāya gamissāmā’ti.
“Này bạn, tôi đem bao cây gai này từ xa lại, và đống gai được bó buộc ký lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm).”
‘Ayaṃ kho me, samma, sāṇabhāro dūrābhato ca susannaddho ca, alaṃ me tvaṃ pajānāhī’ti.
Và người bạn trước quăng bao bạc và lấy bao vàng.
Atha kho so sahāyako sajjhabhāraṃ chaḍḍetvā suvaṇṇabhāraṃ ādiyi.
Cả hai về đến làng của mình.
Te yena sako gāmo tenupasaṅkamiṃsu.
Người bạn đem bao cây gai về, cha mẹ người ấy không được vui vẻ, vợ con người ấy không được vui, bạn bè người ấy không được vui vẻ, và do vậy anh ta không được hạnh phúc, hoan hỷ.
Tattha yo so sahāyako sāṇabhāraṃ ādāya agamāsi, tassa neva mātāpitaro abhinandiṃsu, na puttadārā abhinandiṃsu, na mittāmaccā abhinandiṃsu, na ca tatonidānaṃ sukhaṃ somanassaṃ adhigacchi.
Còn người bạn đem bao vàng về, cha mẹ người ấy được vui vẻ, vợ con người ấy được vui vẻ, bạn bè người ấy được vui vẻ và do vậy người ấy được hạnh phúc hoan hỷ.
Yo pana so sahāyako suvaṇṇabhāraṃ ādāya agamāsi, tassa mātāpitaropi abhinandiṃsu, puttadārāpi abhinandiṃsu, mittāmaccāpi abhinandiṃsu, tatonidānañca sukhaṃ somanassaṃ adhigacchi.
Cũng vậy Tôn chủ, Ngài nói không khác gì ví dụ người mang bao cây gai.
Evameva kho tvaṃ, rājañña, sāṇabhārikūpamo maññe paṭibhāsi.
Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy.
Paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ; paṭinissajjetaṃ, rājañña, pāpakaṃ diṭṭhigataṃ.
Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti.
Với ví dụ đầu tiên của Tôn giả Kassapa tôi đã hoan hỷ, thỏa mãn,
“Purimeneva ahaṃ opammena bhoto kassapassa attamano abhiraddho.
nhưng tôi muốn nghe những câu hỏi đáp thông minh ấy vì tôi xem Tôn giả Kassapa như người đáng được đối lập.
Api cāhaṃ imāni vicitrāni pañhāpaṭibhānāni sotukāmo evāhaṃ bhavantaṃ kassapaṃ paccanīkaṃ kātabbaṃ amaññissaṃ.
Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Kassapa! Thật hy hữu thay, Tôn giả Kassapa!
Abhikkantaṃ, bho kassapa, abhikkantaṃ, bho kassapa.
Tôn giả Kassapa, như một người giơ ra vật gì bị che kín, hay như người hướng dẫn cho kẻ bị lạc đường, hay như người đem đèn vào trong bóng tối cho người có mắt được thấy sắc, cũng vậy Chánh pháp được Tôn giả Kassapa dùng nhiều cách trình bày.
Seyyathāpi, bho kassapa, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhotā kassapena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Tôn giả Kassapa, nay con quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ kheo Tăng,
Esāhaṃ, bho kassapa, taṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.
Tôn giả Kassapa, hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến trọn đời xin nhận Ngài làm chỗ y chỉ.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ kassapo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.
Tôn giả Kassapa, con muốn tổ chức một đại lễ tế đàn. Tôn giả Kassapa hãy giảng dạy cho con để con được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài.
Icchāmi cāhaṃ, bho kassapa, mahāyaññaṃ yajituṃ, anusāsatu maṃ bhavaṃ kassapo, yaṃ mamassa dīgharattaṃ hitāya sukhāyā”ti.
Này Tôn chủ, tại tế đàn có trâu bò bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, này Tôn chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn.
“Yathārūpe kho, rājañña, yaññe gāvo vā haññanti ajeḷakā vā haññanti, kukkuṭasūkarā vā haññanti, vividhā vā pāṇā saṅghātaṃ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti micchādiṭṭhī micchāsaṅkappā micchāvācā micchākammantā micchāājīvā micchāvāyāmā micchāsatī micchāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño na mahapphalo hoti na mahānisaṃso na mahājutiko na mahāvipphāro.
Này Tôn chủ, cũng như người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày.
Seyyathāpi, rājañña, kassako bījanaṅgalaṃ ādāya vanaṃ paviseyya.
Và trên một khoảng đất không cày bừa, không có màu mỡ, giữa những gốc cây chưa được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy bị hư sứt, bị thúi mục, bị gió và sức nóng phá hại, trái mùa, không có điều kiện thuận tiện,
So tattha dukkhette dubbhūme avihatakhāṇukaṇṭake bījāni patiṭṭhāpeyya khaṇḍāni pūtīni vātātapahatāni asāradāni asukhasayitāni.
và thần mưa không cho mưa đúng thời.
Devo ca na kālena kālaṃ sammādhāraṃ anuppaveccheyya.
Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên và sum sê hoa lá lên hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?
Api nu tāni bījāni vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjeyyuṃ, kassako vā vipulaṃ phalaṃ adhigaccheyyā”ti?
Tôn giả Kassapa, không thể được.
“No hidaṃ, bho kassapa”.
Cũng vậy, này Tôn giả, tại tế đàn nào có trâu bò bị giết hay các loại dê bị giết, hay gà và heo bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Này Tôn chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn.
“Evameva kho, rājañña, yathārūpe yaññe gāvo vā haññanti, ajeḷakā vā haññanti, kukkuṭasūkarā vā haññanti, vividhā vā pāṇā saṅghātaṃ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti micchādiṭṭhī micchāsaṅkappā micchāvācā micchākammantā micchāājīvā micchāvāyāmā micchāsatī micchāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño na mahapphalo hoti na mahānisaṃso na mahājutiko na mahāvipphāro.
Này Tôn chủ, tại tế đàn nào không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; này Tôn chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn.
Yathārūpe ca kho, rājañña, yaññe neva gāvo haññanti, na ajeḷakā haññanti, na kukkuṭasūkarā haññanti, na vividhā vā pāṇā saṅghātaṃ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti sammādiṭṭhī sammāsaṅkappā sammāvācā sammākammantā sammāājīvā sammāvāyāmā sammāsatī sammāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro.
Này Tôn chủ, cũng như một người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày.
Seyyathāpi, rājañña, kassako bījanaṅgalaṃ ādāya vanaṃ paviseyya.
Và trên một khoảng đất có cày bừa, có màu mỡ, giữa những gốc cây đã được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy không bị hư sứt, không bị thúi mục, không bị gió và sức nóng phá hại, thuận mùa, có điều kiện thuận lợi
So tattha sukhette subhūme suvihatakhāṇukaṇṭake bījāni patiṭṭhapeyya akhaṇḍāni apūtīni avātātapahatāni sāradāni sukhasayitāni.
Và thần mưa cho mưa đúng thời.
Devo ca kālena kālaṃ sammādhāraṃ anuppaveccheyya.
Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên, sum sê hoa lá, hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?
Api nu tāni bījāni vuddhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjeyyuṃ, kassako vā vipulaṃ phalaṃ adhigaccheyyā”ti?
Tôn giả Kassapa, thật được như vậy.
“Evaṃ, bho kassapa”.
Cũng vậy, này Tôn chủ, tại tế đàn nào mà không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; này Tôn chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn.
“Evameva kho, rājañña, yathārūpe yaññe neva gāvo haññanti, na ajeḷakā haññanti, na kukkuṭasūkarā haññanti, na vividhā vā pāṇā saṅghātaṃ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti sammādiṭṭhī sammāsaṅkappā sammāvācā sammākammantā sammāājīvā sammāvāyāmā sammāsatī sammāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño mahapphalo hoti mahānisaṃso mahājutiko mahāvipphāro”ti.
Rồi Tôn chủ Pāyāsi tổ chức bố thí cho các vị Sa môn, Bà -la-môn, cho những người nghèo, những người vô gia cư, những người ăn mày
Atha kho pāyāsi rājañño dānaṃ paṭṭhapesi samaṇabrāhmaṇakapaṇaddhikavaṇibbakayācakānaṃ.
Trong cuộc bố thí này, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, vải thô với những viền bằng hình tròn.
Tasmiṃ kho pana dāne evarūpaṃ bhojanaṃ dīyati kaṇājakaṃ bilaṅgadutiyaṃ, dhorakāni ca vatthāni guḷavālakāni.
Trong cuộc bố thí này, có vị thanh niên tên Uttara bị bỏ qua.
Tasmiṃ kho pana dāne uttaro nāma māṇavo vāvaṭo ahosi.
Sau khi cuộc bố thí đã xong, vị nầy nói ngạo như sau:
So dānaṃ datvā evaṃ anuddisati:
“Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau.”
“imināhaṃ dānena pāyāsiṃ rājaññameva imasmiṃ loke samāgacchiṃ, mā parasmin”ti.
Tôn chủ Pāyāssi nghe:
Assosi kho pāyāsi rājañño:
Thanh niên Uttàra sau khi cuộc bố thí đã xong, có nói ngạo:
“uttaro kira māṇavo dānaṃ datvā evaṃ anuddisati:
“Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau”.
‘imināhaṃ dānena pāyāsiṃ rājaññameva imasmiṃ loke samāgacchiṃ, mā parasmin’”ti.
Liền cho mời thanh niên Uttara và nói:
Atha kho pāyāsi rājañño uttaraṃ māṇavaṃ āmantāpetvā etadavoca:
Này Thân hữu Uttara, có thật chăng, sau khi cuộc bố thí đã xong, Ngươi có nói ngạo:
“saccaṃ kira tvaṃ, tāta uttara, dānaṃ datvā evaṃ anuddisasi:
“Với cuộc bố thí này, ta gặp được Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau”?
‘imināhaṃ dānena pāyāsiṃ rājaññameva imasmiṃ loke samāgacchiṃ, mā parasmin’”ti?
“Thật có vậy, này Tôn chủ!”
“Evaṃ, bho”.
Này Thân hữu Uttara, tại sao, sau cuộc bố thí Ngươi lại nói ngạo như vậy: “Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau”?
“Kissa pana tvaṃ, tāta uttara, dānaṃ datvā evaṃ anuddisasi: ‘imināhaṃ dānena pāyāsiṃ rājaññameva imasmiṃ loke samāgacchiṃ, mā parasmin’ti?
Này Thân hữu Uttara, có phải chúng ta đi tìm công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí?
Nanu mayaṃ, tāta uttara, puññatthikā dānasseva phalaṃ pāṭikaṅkhino”ti?
Này Tôn chủ, trong cuộc bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn; vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc.
“Bhoto kho dāne evarūpaṃ bhojanaṃ dīyati kaṇājakaṃ bilaṅgadutiyaṃ, yaṃ bhavaṃ pādāpi na iccheyya samphusituṃ, kuto bhuñjituṃ, dhorakāni ca vatthāni guḷavālakāni, yāni bhavaṃ pādāpi na iccheyya samphusituṃ, kuto paridahituṃ.
Tôn chủ, Ngài là người thân và kính mến của chúng tôi. Như thế nào, chúng tôi có thể phối hợp cái gì thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu?
Bhavaṃ kho panamhākaṃ piyo manāpo, kathaṃ mayaṃ manāpaṃ amanāpena saṃyojemā”ti?
Vậy này Thân hữu Uttara, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn,
“Tena hi tvaṃ, tāta uttara, yādisāhaṃ bhojanaṃ bhuñjāmi, tādisaṃ bhojanaṃ paṭṭhapehi.
hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc.
Yādisāni cāhaṃ vatthāni paridahāmi, tādisāni ca vatthāni paṭṭhapehī”ti.
Xin vâng, Tôn chủ! Thanh niên Uttara vâng theo lời Tôn chủ Pāyāsi, đem phân phát những món ăn giống như các món tôn chủ Pāyāsi ăn, đem phân phát các thứ vải, giống như các thứ vải tôn chủ Pāyāsi mặc.
“Evaṃ, bho”ti kho uttaro māṇavo pāyāsissa rājaññassa paṭissutvā yādisaṃ bhojanaṃ pāyāsi rājañño bhuñjati, tādisaṃ bhojanaṃ paṭṭhapesi. Yādisāni ca vatthāni pāyāsi rājañño paridahati, tādisāni ca vatthāni paṭṭhapesi.
Tôn chủ Pāyāsi vì đã bố thí không được cho hoàn vị, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ vật phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka.
Atha kho pāyāsi rājañño asakkaccaṃ dānaṃ datvā asahatthā dānaṃ datvā acittīkataṃ dānaṃ datvā apaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajji suññaṃ serīsakaṃ vimānaṃ.
Còn thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
Yo pana tassa dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo. So sakkaccaṃ dānaṃ datvā sahatthā dānaṃ datvā cittīkataṃ dānaṃ datvā anapaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajji devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
Lúc bấy giờ tôn giả Gavampati (Ngưu Chủ) thường hay đi nghỉ trưa trong cung điện trống không của Serisaka.
Tena kho pana samayena āyasmā gavampati abhikkhaṇaṃ suññaṃ serīsakaṃ vimānaṃ divāvihāraṃ gacchati.
Nay Thiên tử Pāyāssi đi đón tôn giả Gavampati, đảnh lễ ngài, và đứng một bên. Tôn giả Gavampati nói với Thiên tử Pāyāsi đang đứng một bên:
Atha kho pāyāsi devaputto yenāyasmā gavampati tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ gavampatiṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitaṃ kho pāyāsiṃ devaputtaṃ āyasmā gavampati etadavoca:
Hiền giả là ai?
“kosi tvaṃ, āvuso”ti?
Bạch Tôn giả, con là tôn chủ Pāyāsi.
“Ahaṃ, bhante, pāyāsi rājañño”ti.
Này Hiền giả, có phải Ngươi có tà kiến như sau: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Nanu tvaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhiko ahosi: ‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’”ti?
Bạch Tôn giả, con có tà kiến như vậy: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiên ác không có quả báo”,
“Saccāhaṃ, bhante, evaṃdiṭṭhiko ahosiṃ: ‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko’ti.
nhưng nhờ tôn giả Kumàra Kassapa, con tự thoát ly ra khỏi ác tà kiến ấy.
Api cāhaṃ ayyena kumārakassapena etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecito”ti.
Này Hiền giả, còn thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, được thác sanh ở đâu?
“Yo pana te, āvuso, dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so kuhiṃ upapanno”ti?
Bạch Tôn giả, thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
“Yo me, bhante, dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so sakkaccaṃ dānaṃ datvā sahatthā dānaṃ datvā cittīkataṃ dānaṃ datvā anapaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyataṃ.
Còn con, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka.
Ahaṃ pana, bhante, asakkaccaṃ dānaṃ datvā asahatthā dānaṃ datvā acittīkataṃ dānaṃ datvā apaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapanno suññaṃ serīsakaṃ vimānaṃ.
Do vậy, bạch Tôn giả Gavampati, hãy đi đến thế giới loài Người và nói như sau:
Tena hi, bhante gavampati, manussalokaṃ gantvā evamārocehi:
“Hãy bố thí một cách hoàn bị, hãy bố thí với tự tay mình làm, hãy bố thí một cách có suy tư, hãy bố thí với đồ không phế thải.
‘sakkaccaṃ dānaṃ detha, sahatthā dānaṃ detha, cittīkataṃ dānaṃ detha, anapaviddhaṃ dānaṃ detha.
Tôn chủ Pāyāsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương trong cung điện trống không của Serisaka.
Pāyāsi rājañño asakkaccaṃ dānaṃ datvā asahatthā dānaṃ datvā acittīkataṃ dānaṃ datvā apaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapanno suññaṃ serīsakaṃ vimānaṃ.
Còn thanh niên Uttara, bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì bố thí một cách có suy tư, vì bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên”.
Yo pana tassa dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so sakkaccaṃ dānaṃ datvā sahatthā dānaṃ datvā cittīkataṃ dānaṃ datvā anapaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyatan’”ti.
Rồi Tôn giả Gavampati đi vào trong thế giới loài Người và nói như sau:
Atha kho āyasmā gavampati manussalokaṃ āgantvā evamārocesi:
“Hãy bố thí một cách hoàn bị. Hãy bố thí với tự tay mình làm. Hãy bố thí một cách có suy tư. Hãy bố thí các đồ không phế thải.
“sakkaccaṃ dānaṃ detha, sahatthā dānaṃ detha, cittīkataṃ dānaṃ detha, anapaviddhaṃ dānaṃ detha.
Tôn chủ Pāyāsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka.
Pāyāsi rājañño asakkaccaṃ dānaṃ datvā asahatthā dānaṃ datvā acittīkataṃ dānaṃ datvā apaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā cātumahārājikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapanno suññaṃ serīsakaṃ vimānaṃ.
Còn thanh niên Uttara, bị bỏ qua trong một cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách có hoàn bị, vì đã bố thí với tự tay mình làm, vì đã bố thí một cách suy tư, vì đã bố thí với các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên”.
Yo pana tassa dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so sakkaccaṃ dānaṃ datvā sahatthā dānaṃ datvā cittīkataṃ dānaṃ datvā anapaviddhaṃ dānaṃ datvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapanno devānaṃ tāvatiṃsānaṃ sahabyatan”ti.
Dứt bài kinh Pāyāsi.
Pāyāsisuttaṃ niṭṭhitaṃ dasamaṃ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt