Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 24

Trường Bộ 24
Dīgha Nikāya 24

Kinh Ba-Lê
Pāthikasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở giữa bộ lạc Malla(Mạt-la), tại Anupiya (A-dật-di), một thành của bộ lạc Mallā.
ekaṃ samayaṃ bhagavā mallesu viharati anupiyaṃ nāma mallānaṃ nigamo.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y vào buổi sáng, cầm y bát vào thành Anupiya để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya anupiyaṃ piṇḍāya pāvisi.

Rồi Thế Tôn tự nghĩ:
Atha kho bhagavato etadahosi:

“Thật là quá sớm để vào thành Anupiya khất thực.
“atippago kho tāva anupiyāyaṃ piṇḍāya carituṃ.

Ta hãy đến tịnh xá của du sĩ Bhaggava và thăm vị này.”
Yannūnāhaṃ yena bhaggavagottassa paribbājakassa ārāmo, yena bhaggavagotto paribbājako tenupasaṅkameyyan”ti.

Thế Tôn liền đi đến tịnh xá du sĩ Bhaggava.
Atha kho bhagavā yena bhaggavagottassa paribbājakassa ārāmo, yena bhaggavagotto paribbājako tenupasaṅkami.

Rồi du sĩ Bhaggava bạch Thế Tôn:
Atha kho bhaggavagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:

Thế Tôn hãy đến gần!
“etu kho, bhante, bhagavā.

Xin chào đón Thế Tôn.
Svāgataṃ, bhante, bhagavato.

Ðã lâu, Thế Tôn mới có dịp đến đây.
Cirassaṃ kho, bhante, bhagavā imaṃ pariyāyamakāsi yadidaṃ idhāgamanāya.

Mời Thế Tôn ngồi, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.”
Nisīdatu, bhante, bhagavā, idamāsanaṃ paññattan”ti.

Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn,
Nisīdi bhagavā paññatte āsane.

và du sĩ Bhaggava lấy một ghế ngồi khác thấp hơn rồi ngồi xuống một bên.
Bhaggavagottopi kho paribbājako aññataraṃ nīcaṃ āsanaṃ gahetvā ekamantaṃ nisīdi.

Sau khi ngồi xuống một bên, du sĩ Bhaggava bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho bhaggavagotto paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, ngày xưa và nhiều ngày xưa nữa, Sunakkhatta (Thiện Tịnh) thuộc bộ lạc Licchavi (Ly-xa tử) đến con và nói như sau:
“purimāni, bhante, divasāni purimatarāni sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ etadavoca:

“Này Bhaggava, nay tôi từ bỏ Thế Tôn!
‘paccakkhāto dāni mayā, bhaggava, bhagavā.

Nay tôi không sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn nữa.”
Na dānāhaṃ bhagavantaṃ uddissa viharāmī’ti.

Bạch Thế Tôn, sự việc có phải như Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi nói hay không?
Kaccetaṃ, bhante, tatheva, yathā sunakkhatto licchaviputto avacā”ti?

Này Bhaggava, sự việc thật như Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đã nói.
“Tatheva kho etaṃ, bhaggava, yathā sunakkhatto licchaviputto avaca.

Này Bhaggava, thuở xưa và rất xa xưa, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đến thăm Ta. Sau khi đến, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Này Bhaggava, Sumakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi bạch với Ta:
Purimāni, bhaggava, divasāni purimatarāni sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto maṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, nay con xin từ bỏ Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nay con không sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn nữa.”
‘paccakkhāmi dānāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ. Na dānāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmī’ti.

Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nó với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhaggava, sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi:
‘api nu tāhaṃ, sunakkhatta, evaṃ avacaṃ,

“Này Sunakkhatta, hãy đến đây sống dưới sự chỉ dẫn của Ta” chăng?
ehi tvaṃ, sunakkhatta, mamaṃ uddissa viharāhī’ti?

Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṃ, bhante’.

Hay Ngươi có nói với Ta:
‘Tvaṃ vā pana maṃ evaṃ avaca—

“Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn” chăng?
ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmī’ti?

Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṃ, bhante’.

Này Sunakkhatta, Ta không nói:
‘Iti kira, sunakkhatta, nevāhaṃ taṃ vadāmi—

“Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta”
ehi tvaṃ, sunakkhatta, mamaṃ uddissa viharāhīti.

và Ngươi cũng không nói với Ta:
Napi kira maṃ tvaṃ vadesi—

“Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn”.
ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmīti.

Này kẻ ngu kia, như vậy thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ?
Evaṃ sante, moghapurisa, ko santo kaṃ paccācikkhasi?

Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṃ aparaddhan’ti.

Bạch Thế Tôn, nhưng Thế Tôn không khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông.
‘Na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karotī’ti.

Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi:
‘Api nu tāhaṃ, sunakkhatta, evaṃ avacaṃ—

“Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta! Ta sẽ khiến cho Ngươi chứng được các pháp thượng nhân thần thông” chăng?
ehi tvaṃ, sunakkhatta, mamaṃ uddissa viharāhi, ahaṃ te uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissāmī’ti?

Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṃ, bhante’.

Ngươi có nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn. Thế Tôn sẽ khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông” chăng?
‘Tvaṃ vā pana maṃ evaṃ avaca—”ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmi, bhagavā me uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissatī’ti”?

‘Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṃ, bhante’.

Này Sunakkhatta, Ta không nói với Ngươi: “Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta, Ta sẽ khiến cho Ngươi chứng được các pháp thượng nhân thần thông;
‘Iti kira, sunakkhatta, nevāhaṃ taṃ vadāmi—”ehi tvaṃ, sunakkhatta, mamaṃ uddissa viharāhi, ahaṃ te uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissāmīti”;

Ngươi cũng không nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, và Thế Tôn sẽ khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông.”
napi kira maṃ tvaṃ vadesi—”ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmi, bhagavā me uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissatīti”.

Này kẻ ngu kia, như vậy thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ?
Evaṃ sante, moghapurisa, ko santo kaṃ paccācikkhasi?

Này Sunakkhatta, nhà Ngươi nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta?

Các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, có phải như vậy không?
kate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye akate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye yassatthāya mayā dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti?

Bạch Thế Tôn, các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, chính thật là như vậy.
‘Kate vā, bhante, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye akate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye yassatthāya bhagavatā dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti.

‘Này Sunakkhatta, các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau.
‘Iti kira, sunakkhatta, kate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye, akate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye, yassatthāya mayā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya.

Này Sunakkhatta, như vậy thời các pháp thượng nhân thần thông là gì mà cần phải thực chứng?
Tatra, sunakkhatta, kiṃ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kataṃ karissati?

Này kẻ ngu kia, hãy thấy lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṃ aparaddhan’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không giải thích cho con khởi nguyên của thế giới.
‘Na hi pana me, bhante, bhagavā aggaññaṃ paññapetī’ti?

Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi: “Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta. Ta sẽ giải thích cho Ngươi khởi nguyên của Thế giới” chăng?
‘Api nu tāhaṃ, sunakkhatta, evaṃ avacaṃ—’ehi tvaṃ, sunakkhatta, mamaṃ uddissa viharāhi, ahaṃ te aggaññaṃ paññapessāmī’ti?

Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṃ, bhante’.

Này Sunakkhatta, Ngươi có nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, rồi Thế Tôn sẽ giải thích cho con khởi nguyên của thế giới” chăng?
‘Tvaṃ vā pana maṃ evaṃ avaca—’ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmi, bhagavā me aggaññaṃ paññapessatī’ti?

Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṃ, bhante’.

Này Sunakkhatta, như vậy Ta không nói với Ngươi: “Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta. Ta sẽ giải thích cho Ngươi khởi nguyên của thế giới.”
‘Iti kira, sunakkhatta, nevāhaṃ taṃ vadāmi—’ehi tvaṃ, sunakkhatta, mamaṃ uddissa viharāhi, ahaṃ te aggaññaṃ paññapessāmīti.

Ngươi cũng không nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, rồi Thế Tôn sẽ giải thích cho con khởi nguyên của thế giới.”
Napi kira maṃ tvaṃ vadesi—’ahaṃ, bhante, bhagavantaṃ uddissa viharissāmi, bhagavā me aggaññaṃ paññapessatīti.

Này kẻ ngu kia, sự kiện là như vậy, thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ?
Evaṃ sante, moghapurisa, ko santo kaṃ paccācikkhasi?

Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, có phải như vậy không?
paññatte vā aggaññe, apaññatte vā aggaññe, yassatthāya mayā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti?

Bạch Thế Tôn, khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, mục đích mà Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, chính thật là như vậy.
‘Paññatte vā, bhante, aggaññe, apaññatte vā aggaññe, yassatthāya bhagavatā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti.

Này Sunakkhatta, khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, mục đích của Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau.
‘Iti kira, sunakkhatta, paññatte vā aggaññe, apaññatte vā aggaññe, yassatthāya mayā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya.

Này Sunakkhatta, như vậy thời giải thích về khởi nguyên thế giới có ích lợi gì cho Ngươi?
Tatra, sunakkhatta, kiṃ aggaññaṃ paññattaṃ karissati?

Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṃ aparaddhaṃ.

Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện Ngươi đã nói lời tán thán Ta tại làng Vajji: “Như vậy, Thế Tôn là bậc A la hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.”
Anekapariyāyena kho te, sunakkhatta, mama vaṇṇo bhāsito vajjigāme—’itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavāti.’

Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi đã nói lời tán thán Ta tại làng Vajji.
Iti kho te, sunakkhatta, anekapariyāyena mama vaṇṇo bhāsito vajjigāme.

Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện, Ngươi nói lời tán thán Pháp tại làng Vajji: “Chánh pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ người có trí mới thâm hiểu.”
Anekapariyāyena kho te, sunakkhatta, dhammassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme—’svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhīti.’

Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi tán thán Chánh pháp tại làng Vajji.
Iti kho te, sunakkhatta, anekapariyāyena dhammassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme.

Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện, Ngươi đã tán thán Tăng tại làng Vajji: “Chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh chơn, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh trực, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Khuôn phép, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh hạnh, tức là bốn đôi tám chúng. Chư Tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng được kính trọng, đáng được cung kính, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay cúi chào, vì là phước điền tối thượng ở đời”.
Anekapariyāyena kho te, sunakkhatta, saṅghassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme—’suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa bhagavato sāvakasaṅgho, āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassāti.’

Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi tán thán Tăng tại làng Vajji.
Iti kho te, sunakkhatta, anekapariyāyena saṅghassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme.

“Này Sunakkhatta, Ta nói cho Ngươi biết; này Sunakkhatta ta tin cho Ngươi biết; sẽ có lời luận bàn về Ngươi như sau:
Ārocayāmi kho te, sunakkhatta, paṭivedayāmi kho te, sunakkhatta.

“Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi không thể sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa môn Gotama. Vì không kham nổi, nên từ bỏ tu học trở về với đời sống thấp kém”.
Bhavissanti kho te, sunakkhatta, vattāro, no visahi sunakkhatto licchaviputto samaṇe gotame brahmacariyaṃ carituṃ, so avisahanto sikkhaṃ paccakkhāya hīnāyāvattoti.

Này Sunakkhatta, sẽ có lời luận bàn về Ngươi như vậy.
Iti kho te, sunakkhatta, bhavissanti vattāro’ti.

Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi dầu được Ta nói vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rớt vào đọa xứ, địa ngục.
Evaṃ kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṃ āpāyiko nerayiko.

Này Bhaggava, một thời Ta ở bộ lạc Thūlū, tại thị trấn của bộ lạc Thūlū tên là Uttarakā
Ekamidāhaṃ, bhaggava, samayaṃ thūlūsu viharāmi uttarakā nāma thūlūnaṃ nigamo.

Này Bhaggava, rồi buổi sáng Ta đắp y, cầm y bát cùng với Sa di Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi theo sau, vào thị trấn Uttarakā khất thực.
Atha khvāhaṃ, bhaggava, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sunakkhattena licchaviputtena pacchāsamaṇena uttarakaṃ piṇḍāya pāvisiṃ.

Lúc bấy giờ, lõa thể Korakkhattiya, tu theo hạnh chó đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ cứng hay đồ ăn mềm.
Tena kho pana samayena acelo korakkhattiyo kukkuravatiko catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjati.

Này Bahaggava, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh chó, đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng ăn đồ cứng hay đồ ăn mềm.
Addasā kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto acelaṃ korakkhattiyaṃ kukkuravatikaṃ catukkuṇḍikaṃ chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva khādantaṃ mukheneva bhuñjantaṃ.

Liền suy nghĩ:
Disvānassa etadahosi:

“Thật tốt đẹp thay vị A la hán Sa môn đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm”?
‘sādhurūpo vata bho ayaṃ samaṇo catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjatī’ti.

Này Bhaggava, Ta biết được tâm tư của Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi với tâm tư của Ta cà Ta nói với ông ta như sau:
Atha khvāhaṃ, bhaggava, sunakkhattassa licchaviputtassa cetasā cetoparivitakkamaññāya sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

Này kẻ ngu kia, có phải Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích Tử không?
‘tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī’ti.

Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại nói: “Này kẻ ngu kia, có phải Ngươi tự nhân Ngươi là Thích Tử không”?
‘Kiṃ pana maṃ, bhante, bhagavā evamāha: “tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī”’ti?

Này Sunakkhatta, có phải Ngươi, sau khi thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh chó, đi bốn chân bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm, liền suy nghĩ: “Thật tốt đẹp thay vị A la hán Sa môn đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm”?
‘Nanu te, sunakkhatta, imaṃ acelaṃ korakkhattiyaṃ kukkuravatikaṃ catukkuṇḍikaṃ chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva khādantaṃ mukheneva bhuñjantaṃ disvāna etadahosi:—’sādhurūpo vata bho ayaṃ samaṇo catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṃ bhakkhasaṃ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjatī’ti?

Bạch Thế Tôn có vậy.
‘Evaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại ganh ghét với một bị A la hán?
Kiṃ pana, bhante, bhagavā arahattassa maccharāyatī’ti?

Này kẻ ngu kia, Ta đâu có ganh ghét với một vị A la hán?
‘Na kho ahaṃ, moghapurisa, arahattassa maccharāyāmi.

Chính Ngươi tự sinh ác tà kiến ấy, hãy bỏ nó đi.
Api ca tuyhevetaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ, taṃ pajaha.

Chớ để tự mình lâu ngày bị khổ đau thiệt hại.
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Này Sunakkhtta, lõa thể Korakkhattiya mà Ngươi nghĩ là— tốt đẹp, là vị Sa môn, sau bảy ngày sẽ bị trúng thực mà chết.
Yaṃ kho panetaṃ, sunakkhatta, maññasi acelaṃ korakkhattiyaṃ—sādhurūpo ayaṃ samaṇoti. So sattamaṃ divasaṃ alasakena kālaṃ karissati.

sau khi chết sẽ tái sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura (A-tu-la) thấp kém nhất.
Kālaṅkato ca kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatra upapajjissati.

Sau khi chết, nó sẽ bị quăng trong nghĩa địa đặt trên đống cỏ Bīraṇa.
Kālaṅkatañca naṃ bīraṇatthambake susāne chaḍḍessanti.

Này Sunakkhatta, nếu Ngươi muốn, hãy đến hỏi lõa thể Korakkhattiya như sau:
Ākaṅkhamāno ca tvaṃ, sunakkhatta, acelaṃ korakkhattiyaṃ upasaṅkamitvā puccheyyāsi—

“Này bạn Korakkhattiya, bạn có biết bạn thác sanh cảnh giới nào không?”
jānāsi, āvuso korakkhattiya, attano gatinti?

Này Sunakkhatta, sự kiện này có thể xảy ra, lõa thể Korakkhatta ấy có thể trả lời với Ngươi:
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, sunakkhatta, vijjati yaṃ te acelo korakkhattiyo byākarissati—

“Này bạn Sunakkhatta, tôi biết cảnh giới thác sanh của tôi.
jānāmi, āvuso sunakkhatta, attano gatiṃ;

Tôi sẽ thác sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura thấp kém nhất”.
kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatrāmhi upapanno’ti.

Này Bhaggava, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi, đi đến lõa thể Korakkhattiya và nói:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yena acelo korakkhattiyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelaṃ korakkhattiyaṃ etadavoca:

Này bạn Korakkhattiya, Sa môn Gotama có nói như sau:
‘byākato khosi, āvuso korakkhattiya, samaṇena gotamena—

“Lõa thể Korakkhattiya sau bảy ngày sẽ bị trúng thực mà chết,
acelo korakkhattiyo sattamaṃ divasaṃ alasakena kālaṃ karissati.

sau khi chết sẽ tái sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura (A-tu-la) thấp kém nhất.
Kālaṅkato ca kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatra upapajjissati.

Sau khi chết, ông ta sẽ bị quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Bāraṇa”.
Kālaṅkatañca naṃ bīraṇatthambake susāne chaḍḍessantīti.

Này Bạn Korakkhattiya, vậy Bạn hãy ăn cho có tiết độ, vậy Bạn hãy uống cho có tiết độ,
Yena tvaṃ, āvuso korakkhattiya, mattaṃ mattañca bhattaṃ bhuñjeyyāsi, mattaṃ mattañca pānīyaṃ piveyyāsi.

để lời nói của Sa môn Gotama trở thành nói láo.”
Yathā samaṇassa gotamassa micchā assa vacanan’ti.

Này Bhaggava, vì không tin tưởng Như Lai, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đếm từng ngày một cho đến bảy ngày.
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto ekadvīhikāya sattarattindivāni gaṇesi, yathā taṃ tathāgatassa asaddahamāno.

Nhưng này Bhaggava, lõa thể Korakkhattiya sau bảy ngày bị trúng thực mà chết.
Atha kho, bhaggava, acelo korakkhattiyo sattamaṃ divasaṃ alasakena kālamakāsi.

Sau khi chết, bị tái sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura thấp kém nhất.
kālaṅkato ca kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatra upapajji.

Sau khi chết, ông ta bị quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Bīrana.
kālaṅkatañca naṃ bīraṇatthambake susāne chaḍḍesuṃ.

Này Bhaggava, Sunakkhatta được nghe:
Assosi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto:

“Lõa thể Korakkhattiya bị trúng thực chết, quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Bīrana.”
‘acelo kira korakkhattiyo alasakena kālaṅkato bīraṇatthambake susāne chaḍḍito’ti.

Này Bhaggava, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi liền đi đến đống cỏ Bīrana tại nghĩa địa, đến lõa thể Korakkhattiya, lấy tay đánh ba lần và hỏi:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yena bīraṇatthambakaṃ susānaṃ, yena acelo korakkhattiyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelaṃ korakkhattiyaṃ tikkhattuṃ pāṇinā ākoṭesi:

Này bạn Korakkhattiya, Bạn có biết cảnh giới thác sanh của Bạn không?”
‘jānāsi, āvuso korakkhattiya, attano gatin’ti?

Này Bhaggava, lõa thể Korakkhattiya lấy tay xoa lưng và ngồi dậy:
Atha kho, bhaggava, acelo korakkhattiyo pāṇinā piṭṭhiṃ paripuñchanto vuṭṭhāsi.

Này bạn Sunakkhatta, tôi biết cảnh giới thác sanh của tôi.
‘Jānāmi, āvuso sunakkhatta, attano gatiṃ.

Tôi thác sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura thấp kém nhất.” Sau khi nói xong, ông ta ngã ngửa xuống.
Kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatrāmhi upapanno’ti vatvā tattheva uttāno papati.

Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đến Ta, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Này Bhaggava, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho ahaṃ, bhaggava, sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Ðiều Ta nói với Ngươi về lõa thể Korakkhattiya, có phải sự việc xảy ra như Ta nói không, hay là khác?
yatheva te ahaṃ acelaṃ korakkhattiyaṃ ārabbha byākāsiṃ, tatheva taṃ vipākaṃ, aññathā vā’ti?

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói với con về lõa thể Korakkhattiya như thế nào, sự việc xảy ra như Thế Tôn nói, không phải khác!
‘Yatheva me, bhante, bhagavā acelaṃ korakkhattiyaṃ ārabbha byākāsi, tatheva taṃ vipākaṃ, no aññathā’ti.

Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Sự kiện là như vậy, thời có phải pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện có phải không?
yadi evaṃ sante kataṃ vā hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ, akataṃ vā’ti?

Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, chắc chắn là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện.
‘Addhā kho, bhante, evaṃ sante kataṃ hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ, no akatan’ti.

Vậy này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi nói: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông cho con.”
‘Evampi kho maṃ tvaṃ, moghapurisa, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karontaṃ evaṃ vadesi:—’na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karotīti.’

Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!”
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṃ aparaddhan’ti.

Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi được Ta nói như vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Evampi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṃ āpāyiko nerayiko.

Này Bhaggava, một thời, Ta trú tại Vesāli (Tỳ xá ly), rừng Ðại Lâm, ở Trùng Các giảng đường.
Ekamidāhaṃ, bhaggava, samayaṃ vesāliyaṃ viharāmi mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.

Lúc bấy giờ, lõa thể Kandaramasuka ở tại Vesāli được sự cúng dường tối thượng, được xưng danh tối thượng tại làng Vajji.
Tena kho pana samayena acelo kaḷāramaṭṭako vesāliyaṃ paṭivasati lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.

Vị này có phát nguyện tuân theo bảy giới hạnh:
Tassa sattavatapadāni samattāni samādinnāni honti:

‘”Trọn đời, ta theo hạnh lõa thể, không mặc quần áo; trọn đời, ta sống phạm hạnh, không có hành dâm; trọn đời ta tự nuôi sống với rượu và thịt, không phải với cháo cơm;
‘yāvajīvaṃ acelako assaṃ, na vatthaṃ paridaheyyaṃ, yāvajīvaṃ brahmacārī assaṃ, na methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyaṃ, yāvajīvaṃ surāmaṃseneva yāpeyyaṃ, na odanakummāsaṃ bhuñjeyyaṃ.

ta không bao giờ đi quá tháp Udana phía Ðông thành Vesāli; ta không bao giờ đi quá tháp Gotamaka, phía Nam thành Vesāli; ta không bao giờ đi quá tháp Sattamba, phía Tây thành Vesā; ta không bao giờ đi quá tháp Bahuputta, phía Bắc thành Vesāli.”
Puratthimena vesāliṃ udenaṃ nāma cetiyaṃ, taṃ nātikkameyyaṃ, dakkhiṇena vesāliṃ gotamakaṃ nāma cetiyaṃ, taṃ nātikkameyyaṃ, pacchimena vesāliṃ sattambaṃ nāma cetiyaṃ, taṃ nātikkameyyaṃ, uttarena vesāliṃ bahuputtaṃ nāma cetiyaṃ taṃ nātikkameyyan’ti.

Vị này, nhờ tuân theo bảy giới hạnh này mà được sự cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng tại làng Vajji.
So imesaṃ sattannaṃ vatapadānaṃ samādānahetu lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.

Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đi đến lõa thể Kandaramasuka và hỏi câu hỏi;
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yena acelo kaḷāramaṭṭako tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelaṃ kaḷāramaṭṭakaṃ pañhaṃ apucchi.

lõa thể Kandaramasuka khi bị hỏi như vậy, không theo dõi câu hỏi,
Tassa acelo kaḷāramaṭṭako pañhaṃ puṭṭho na sampāyāsi.

vì không theo dõi, nên tỏ ra tức tối, giận dữ, phật ý.
Asampāyanto kopañca dosañca appaccayañca pātvākāsi.

Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi suy nghĩ:
Atha kho, bhaggava, sunakkhattassa licchaviputtassa etadahosi:

“Chúng ta có thể trở thành chống đối vị A la hán Sa môn tốt đẹp này.
‘sādhurūpaṃ vata bho arahantaṃ samaṇaṃ āsādimhase.

Hãy giữ đừng có gì xảy ra khiến chúng ta có thể bất lợi đau khổ lâu đời.”
Mā vata no ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā’ti.

Này Bhaggava, rồi Sunakkhata, thuộc bộ lạc Licchavi đi đến Ta, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Này Bahaggava, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho ahaṃ, bhaggava, sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

Này kẻ ngu kia, Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?
‘tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī’ti.

Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại nói với con như vậy: “Này kẻ ngu kia, Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?’
‘Kiṃ pana maṃ, bhante, bhagavā evamāha—tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī’ti?

Này Sunakkhatta, có phải Ngươi đã đi đến lõa thể Kandaramasuka và hỏi câu hỏi.
‘Nanu tvaṃ, sunakkhatta, acelaṃ kaḷāramaṭṭakaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ apucchi.

Lõa thể Kandaramasuka khi được Ngươi hỏi như vậy, không theo dõi câu hỏi;
Tassa te acelo kaḷāramaṭṭako pañhaṃ puṭṭho na sampāyāsi.

vì không theo dõi nên tỏ ra tức tối, giận dữ, phật ý.
Asampāyanto kopañca dosañca appaccayañca pātvākāsi.

Rồi ngươi tự nghĩ:
Tassa te etadahosi:

“Chúng ta có thể trở thành chống đối vị A la hán, Sa môn tốt đẹp này.
“sādhurūpaṃ vata bho arahantaṃ samaṇaṃ āsādimhase.

Hãy giữ đừng có có gì xảy ra khiến chúng có thể bất lợi đau khổ lâu đời!”.
Mā vata no ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”’ti.

Bạch Thế Tôn có vậy.
‘Evaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại ganh ghét với một vị A la hán?
Kiṃ pana, bhante, bhagavā arahattassa maccharāyatī’ti?

Này kẻ ngu kia, Ta đâu có ganh ghét với một vị A la hán!
‘Na kho ahaṃ, moghapurisa, arahattassa maccharāyāmi,

Chính Ngươi tự sanh ác tà kiến ấy, hãy từ bỏ nó đi.
api ca tuyhevetaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ, taṃ pajaha.

Chớ để mình lâu ngày bị thiệt hại đau khổ!
Mā te ahosi dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya.

Này Sunakkhatta, lõa thể Kandaramasuka mà Ngươi nghĩ là vị A la hán,
Yaṃ kho panetaṃ, sunakkhatta, maññasi acelaṃ kaḷāramaṭṭakaṃ—

là vị Sa môn tốt đẹp, không bao lâu sẽ sống mặc áo và lập gia đình, sẽ ăn cơm cháo, sẽ đi vượt quá các tháp ở Vesāli và sẽ chết mất hết cả danh xưng”.
sādhurūpo ayaṃ samaṇoti, so nacirasseva parihito sānucāriko vicaranto odanakummāsaṃ bhuñjamāno sabbāneva vesāliyāni cetiyāni samatikkamitvā yasā nihīno kālaṃ karissatī’ti.

Này Bhaggava, lõa thể Kandaramasuka, không bao lâu sống mặc áo và lập gia đình, ăn dùng cơm cháo, đi vượt quá các tháp ở Vesàli và bị chết mất hết cả danh xưng.
Atha kho, bhaggava, acelo kaḷāramaṭṭako nacirasseva parihito sānucāriko vicaranto odanakummāsaṃ bhuñjamāno sabbāneva vesāliyāni cetiyāni samatikkamitvā yasā nihīno kālamakāsi.

Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi được nghe tin: lõa thể Kandaramasuka không bao lâu sống mặc áo và lập gia đình, ăn dùng cơm cháo, đi vượt quá các tháp ở Vesàli và bị chết mất hết danh xưng.
Assosi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto: ‘acelo kira kaḷāramaṭṭako parihito sānucāriko vicaranto odanakummāsaṃ bhuñjamāno sabbāneva vesāliyāni cetiyāni samatikkamitvā yasā nihīno kālaṅkato’ti.

Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta đi đến chỗ Ta ở, sau khi đến đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Này Bhaggava, và Ta nói với Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho ahaṃ, bhaggava, sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Ðiều Ta nói với Ngươi về lõa thể Kandaramasuka có phải sự việc xảy ra như Ta nói không, hay là khác?
yatheva te ahaṃ acelaṃ kaḷāramaṭṭakaṃ ārabbha byākāsiṃ, tatheva taṃ vipākaṃ, aññathā vā’ti?

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói với con về lõa thể Kandaramasuka như thế nào, sự việc xảy ra như Thế Tôn nói, không phải khác.
‘Yatheva me, bhante, bhagavā acelaṃ kaḷāramaṭṭakaṃ ārabbha byākāsi, tatheva taṃ vipākaṃ, no aññathā’ti.

Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Sự kiện là như vậy, thời có phải là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện, có phải không?
yadi evaṃ sante kataṃ vā hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ akataṃ vā’ti?

Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, chắc chắn là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện.
‘Addhā kho, bhante, evaṃ sante kataṃ hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ, no akatan’ti.

Vậy này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi nói:
‘Evampi kho maṃ tvaṃ, moghapurisa, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karontaṃ evaṃ vadesi:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông cho con.”
“na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karotī”ti.

Này kẻ ngu kia, hãy thấy rõ sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!”
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṃ aparaddhan’ti.

Này Bhaggava, như vậy Sunakkhtta, thuộc bộ lạc Licchavi được Ta nói như vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Evampi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṃ āpāyiko nerayiko.

Này Bhaggava, một thời Ta trú ở Vesāli, rừng Ðại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.
Ekamidāhaṃ, bhaggava, samayaṃ tattheva vesāliyaṃ viharāmi mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.

Lúc bấy giờ, lõa thể Pātikaputta sống ở Vesāli, được cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng ở làng Vajji.
Tena kho pana samayena acelo pāthikaputto vesāliyaṃ paṭivasati lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.

Trong các buổi họp ở Vesāli, ông ta thường tuyên bố như sau:
So vesāliyaṃ parisati evaṃ vācaṃ bhāsati:

Sa môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí.
‘samaṇopi gotamo ñāṇavādo, ahampi ñāṇavādo.

Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông của mình, nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassetuṃ.

Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṃ āgaccheyya, ahampi upaḍḍhapathaṃ gaccheyyaṃ.

Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kareyyāma.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, dvāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṃ karissāmi.

Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiều pháp thần thông thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.”
Iti yāvatakaṃ yāvatakaṃ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, taddiguṇaṃ taddiguṇāhaṃ karissāmī’ti.

Này Bhaggava, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đã đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi bạch với Ta:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto maṃ etadavoca:

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pāthikaputta (Ba-lê tử) sống ở Vesāli, được cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng ở làng Vajji.
‘acelo, bhante, pāthikaputto vesāliyaṃ paṭivasati lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.

Trong buổi họp ở Vesāli, thường tuyên bố như sau:
So vesāliyaṃ parisati evaṃ vācaṃ bhāsati:

“Sa môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí.
“samaṇopi gotamo ñāṇavādo, ahampi ñāṇavādo.

Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassetuṃ.

Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṃ āgaccheyya, ahampi upaḍḍhapathaṃ gaccheyyaṃ.

Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kareyyāma.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, dvāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Iti yāvatakaṃ yāvatakaṃ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, taddiguṇaṃ taddiguṇāhaṃ karissāmī”’ti.

Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhaggava, sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

Này Sunakkhatta, lõa thể Pāthikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, sunakkhatta, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—
Sacepissa evamassa—

ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ta sẽ bị bể tan.
ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thận trọng lời nói! Thiện Thệ hãy thận trọng lời nói!
‘Rakkhatetaṃ, bhante, bhagavā vācaṃ, rakkhatetaṃ sugato vācan’ti.

Này Sunakkhatta, tại sao Ngươi lại nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thận trọng lời nói.”?
‘Kiṃ pana maṃ tvaṃ, sunakkhatta, evaṃ vadesi—rakkhatetaṃ, bhante, bhagavā vācaṃ, rakkhatetaṃ sugato vācan’ti?

Bạch Thế Tôn, lời nói này đã được Thế Tôn tuyên bố một cách cực đoan:
‘Bhagavatā cassa, bhante, esā vācā ekaṃsena odhāritā—

“Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
abhabbo acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—
Sacepissa evamassa—

ông ấy sẽ đến gặp Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pāthikaputta có thể đến gặp mặt Thế Tôn với một hóa thân khác, và như vậy Thế Tôn trở thành nói không thật!
Acelo ca, bhante, pāthikaputto virūparūpena bhagavato sammukhībhāvaṃ āgaccheyya, tadassa bhagavato musā’ti.

Này Sunakkhatta, Như Lai có bao giờ nói lời nói nào có hai nghĩa không?
‘Api nu, sunakkhatta, tathāgato taṃ vācaṃ bhāseyya yā sā vācā dvayagāminī’ti?

Bạch Thế Tôn, có phải do tự tâm phán xét mà Thế Tôn đã được biết về Pāthikaputta: “Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘Kiṃ pana, bhante, bhagavatā acelo pāthikaputto cetasā ceto paricca vidito—abhabbo acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan”.
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti?

Hay là có vị Thiên thần nào đã báo tin cho Như Lai biết: Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Udāhu, devatā bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ—abhabbo, bhante, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti?

Này Sunakkhatta, chính tự tâm phán xét mà ta đã biết về lõa thể Pātikaputta:
‘Cetasā ceto paricca vidito ceva me, sunakkhatta, acelo pāthikaputto—

“Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
abhabbo acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan”.
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.

Và cũng có vị Thiên thần đã báo tin cho Ta biết: “Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Devatāpi me etamatthaṃ ārocesuṃ—abhabbo, bhante, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.

Vị tướng quân ở bộ lạc Licchavi tên là Ajita, khi mệnh chung vào ngày kia đã được sanh vào Tam thập tam thiên.
Ajitopi nāma licchavīnaṃ senāpati adhunā kālaṅkato tāvatiṃsakāyaṃ upapanno.

Rồi vị ấy đến bạch với Ta:
Sopi maṃ upasaṅkamitvā evamārocesi—

“Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có tàm quý!
alajjī, bhante, acelo pāthikaputto;

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không nói sự thật!
musāvādī, bhante, acelo pāthikaputto.

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta đã nói về con, ở giữa làng Vajji như sau:
Mampi, bhante, acelo pāthikaputto byākāsi vajjigāme—

Tướng quân ở bộ lạc Licchavi tên là Ajita sẽ thác sanh vào Ðại địa ngục,
ajito licchavīnaṃ senāpati mahānirayaṃ upapannoti.

Bạch Thế Tôn, con không thác sanh vào Ðại địa ngục,
Na kho panāhaṃ, bhante, mahānirayaṃ upapanno;

Bạch Thế Tôn, con được sanh vào cõi Tam thập tam thiên!
tāvatiṃsakāyamhi upapanno.

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có tàm quý.
Alajjī, bhante, acelo pāthikaputto;

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không nói sự thật!
musāvādī, bhante, acelo pāthikaputto;

Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
abhabbo ca, bhante, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.

Này Sunakkhatta, như vậy chính tự tâm phán xét mà Ta biết về lõa thể Pātikaputta. Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Iti kho, sunakkhatta, cetasā ceto paricca vidito ceva me acelo pāthikaputto abhabbo acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.

Và một vị thiên Thần đã báo tin cho ta biết: “Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Devatāpi me etamatthaṃ ārocesuṃ—abhabbo, bhante, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.

Này Sunakkhatta, sau khi Ta đi khất thực ở Vesāli, ăn xong và khất thực trở về, Ta sẽ đến tại vườn Pātikaputta để nghỉ trưa.
So kho panāhaṃ, sunakkhatta, vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkamissāmi divāvihārāya.

Này Sunakkhatta, nếu Ngươi muốn, hãy tin cho ông ấy biết.”
Yassadāni tvaṃ, sunakkhatta, icchasi, tassa ārocehī’ti.

Này Bhaggava, rồi Ta đắp y vào buổi sáng, cầm y bát vào thành Vesāli để khất thực.
Atha khvāhaṃ, bhaggava, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya vesāliṃ piṇḍāya pāvisiṃ.

Sau khi đi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, Ta đi đến vườn của Pātikaputta để nghỉ trưa.
Vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkamiṃ divāvihārāya.

Này Bhaggava, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi vội vàng vào thành Vesāli, đến những Licchava có danh tiếng và báo tin cho những vị ấy biết:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto taramānarūpo vesāliṃ pavisitvā yena abhiññātā abhiññātā licchavī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā abhiññāte abhiññāte licchavī etadavoca:

Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, đã đi đến vườn của Pātikaputta để nghỉ trưa!
‘esāvuso, bhagavā vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkami divāvihārāya.

Mong quý vị hãy đến! Mong quý vị hãy đến! Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.”
Abhikkamathāyasmanto abhikkamathāyasmanto, sādhurūpānaṃ samaṇānaṃ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ bhavissatī’ti.

Này Bhaggava, các Licchavi có danh tiếng suy nghĩ như sau:
Atha kho, bhaggava, abhiññātānaṃ abhiññātānaṃ licchavīnaṃ etadahosi:

“Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.
‘sādhurūpānaṃ kira, bho, samaṇānaṃ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ bhavissati;

Vậy chúng ta hãy đi đến đó.”
handa vata, bho, gacchāmā’ti.

Và chỗ nào có những Bà la môn có địa vị, những gia chủ giàu sang, các Bà la môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng, ông ta đi đến các vị này và báo tin cho biết:
Yena ca abhiññātā abhiññātā brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā abhiññāte abhiññāte nānātitthiye samaṇabrāhmaṇe etadavoca:

Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi đi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, đã đi đến vườn của Pātikaputta để nghỉ trưa.
‘esāvuso, bhagavā vesāliyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkami divāvihārāya.

Mong quý vị hãy đến! Mong quý vị hãy đến! Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.”
Abhikkamathāyasmanto abhikkamathāyasmanto, sādhurūpānaṃ samaṇānaṃ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ bhavissatī’ti.

Này Bhaggava, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng suy nghĩ:
Atha kho, bhaggava, abhiññātānaṃ abhiññātānaṃ nānātitthiyānaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ etadahosi:

“Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.
‘sādhurūpānaṃ kira, bho, samaṇānaṃ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ bhavissati;

Vậy chúng ta hãy đi đến đó.”
handa vata, bho, gacchāmā’ti.

Này Bhaggava, rồi các Licchavi có danh tiếng, các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cùng đi đến vườn của Pātikaputta.
Atha kho, bhaggava, abhiññātā abhiññātā licchavī, abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkamiṃsu.

Này Bhaggava, như vậy Hội chúng này lên đến hàng trăm hàng ngàn người.
Sā esā, bhaggava, parisā mahā hoti anekasatā anekasahassā.

Này Bhaggava, lõa thể Pātikaputta được nghe:
Assosi kho, bhaggava, acelo pāthikaputto:

“Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà la môn có địa vị, các gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến,
‘abhikkantā kira abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā.

còn Sa môn Gotama thì ngồi nghỉ trưa tại vườn của ta.”
Samaṇopi gotamo mayhaṃ ārāme divāvihāraṃ nisinno’ti.

Khi nghe vậy ông ấy hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược.
Sutvānassa bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃso udapādi.

Này Bhaggava, lõa thể Pātikaputta hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược, liền đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu.
Atha kho, bhaggava, acelo pāthikaputto bhīto saṃviggo lomahaṭṭhajāto yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo tenupasaṅkami.

Này Bhaggava, Hội chúng ấy được nghe:
Assosi kho, bhaggava, sā parisā:

“Lõa thể Pātikaputta hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược đã đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu.”
‘acelo kira pāthikaputto bhīto saṃviggo lomahaṭṭhajāto yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo tenupasaṅkanto’ti.

Này Bhaggava, Hội chúng liền cho gọi một người và bảo:
Atha kho, bhaggava, sā parisā aññataraṃ purisaṃ āmantesi:

Này bạn hãy đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp lõa thể Pātikaputta và nói như sau:
‘Ehi tvaṃ, bho purisa, yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkama. upasaṅkamitvā acelaṃ pāthikaputtaṃ evaṃ vadehi:

“Này bạn Pātikaputta hãy đến. Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến. Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
“abhikkamāvuso, pāthikaputta, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā, samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno;

Này Hiền giả Pātikaputta, lời nói sau đây được Hiền giả nói tại Hội chúng ở Vesāli:
bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṃ parisati vācā

“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo, ahampi ñāṇavādo.

Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassetuṃ.

Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṃ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṃ gaccheyyaṃ.

Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kareyyāma.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, dvāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṃ karissāmi.

Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṃ yāvatakaṃ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, taddiguṇaṃ taddiguṇāhaṃ karissāmī”ti

“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
abhikkamasseva kho āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṃ.

Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṃyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno’ti.

Này Bhaggava, người ấy vâng theo lời Hội chúng ấy, đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp lõa thể Pātikaputta, sau khi gặp xong, liền thưa:
Evaṃ, bhoti kho, bhaggava, so puriso tassā parisāya paṭissutvā yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā acelaṃ pāthikaputtaṃ etadavoca:

“Này bạn Pātikaputta hãy đến. Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến.
‘abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā.

Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
Samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno.

Này Hiền giả Pātikaputta, lời nói sau đây được Hiền giả nói tại Hội chúng ở Vesāli:
Bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṃ parisati vācā—

“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo; ahampi ñāṇavādo.

Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassetuṃ.

Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṃ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṃ gaccheyyaṃ.

Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kareyyāma.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, dvāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṃ karissāmi.

Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṃ yāvatakaṃ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, taddiguṇaṃ taddiguṇāhaṃ karissāmī”ti

“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
Abhikkamasseva kho, āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṃ.

Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṃyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno’ti.

Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, lõa thể Pātikaputta trả lời: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”. Nhưng ông ấy như trườn bò qua lại tại chỗ, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Evaṃ vutte, bhaggava, acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṃ.

Này Bhaggava, người ấy nói với lõa thể Pātikaputta:
Atha kho so, bhaggava, puriso acelaṃ pāthikaputtaṃ etadavoca:

Này Hiền giả Pātikaputta sao lại như vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính liền vào mông của Hiền giả?
‘kiṃ su nāma te, āvuso pāthikaputta, pāvaḷā su nāma te pīṭhakasmiṃ allīnā, pīṭhakaṃ su nāma te pāvaḷāsu allīnaṃ?

“Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”. Tuy nói vậy nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Āyāmi āvuso, āyāmi āvusoti vatvā tattheva saṃsappasi, na sakkosi āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Này Bhaggava, được nói vậy, lõa thể Pāthikaputta tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”; nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Evampi kho, bhaggava, vuccamāno acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṃ.

Này Bhaggava, khi người ấy biết:
Yadā kho so, bhaggava, puriso aññāsi:

lõa thể Pāthikaputta này đã bị thảm hại,
‘parābhūtarūpo ayaṃ acelo pāthikaputto.

tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, lại trườn bò qua lại tại chỗ, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Người ấy liền đến Hội chúng ấy báo tin:
Atha taṃ parisaṃ āgantvā evamārocesi:

Lõa thể Pātikaputta đã thảm bại, tuy nói:
‘parābhūtarūpo, bho, acelo pāthikaputto.

“Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, lại trườn bò qua lại, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.”
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Này Bhaggava, khi nghe vậy Ta nói Hội chúng:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhaggava, taṃ parisaṃ etadavocaṃ:

Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Dứt tụng phẩm thứ nhất.
Paṭhamabhāṇavāro niṭṭhito.

Này Bhaggava, một vị đại thần Licchavi, từ chỗ ngồi đứng dậy, nói với Hội chúng ấy:
Atha kho, bhaggava, aññataro licchavimahāmatto uṭṭhāyāsanā taṃ parisaṃ etadavoca:

Các Hiền giả hãy chờ một lát, để tôi đi,
‘tena hi, bho, muhuttaṃ tāva āgametha, yāvāhaṃ gacchāmi.

xem có thể đưa lõa thể Pāthikaputta đến Hội chúng này không?
Appeva nāma ahampi sakkuṇeyyaṃ acelaṃ pāthikaputtaṃ imaṃ parisaṃ ānetun’ti.

Này Bhaggava, rồi vị đại thần Licchavi ấy đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp mặt lõa thể Pātikaputta và nói với ông ấy:
Atha kho so, bhaggava, licchavimahāmatto yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā acelaṃ pāthikaputtaṃ etadavoca:

Này bạn Pātikaputta hãy đến! Các Licchavi danh tiếng đã đến, và các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến; còn Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
‘abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkantaṃ te seyyo, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā. Samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno.

Này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả đã tuyên bố giữa Hội chúng Vesāli:
Bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṃ parisati vācā—

“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo; ahampi ñāṇavādo.

Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassetuṃ.

Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṃ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṃ gaccheyyaṃ.

Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kareyyāma.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, dvāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṃ karissāmi.

Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṃ yāvatakaṃ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, taddiguṇaṃ taddiguṇāhaṃ karissāmī”ti

“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
Abhikkamasseva kho, āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṃ.

Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṃyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno’ti.

Này Hiền giả Pātikaputta, Sa môn Gotama đã nói với Hội chúng về Hiền giả như sau:
Bhāsitā kho panesā, āvuso pāthikaputta, samaṇena gotamena parisati vācā—

Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Này Hiền giả Pātikaputta hãy đến! Nếu Hiền giả đến, chúng tôi sẽ làm cho Hiền giả thắng và làm cho Sa môn Gotama thất bại.”
Abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkamaneneva te jayaṃ karissāma, samaṇassa gotamassa parājayan’ti.

Này Bhaggava, khi được nghe nói vậy, lõa thể Pātikaputta, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng trườn bò qua lại tại chỗ, không thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
Evaṃ vutte, bhaggava, acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṃ.

Này Bhaggava, vị đại thần Licchavi liền nói với lõa thể Pātikaputta:
Atha kho so, bhaggava, licchavimahāmatto acelaṃ pāthikaputtaṃ etadavoca:

Này Hiền giả Pātikaputta, sao lại vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính liền vào mông của Hiền giả.
‘kiṃ su nāma te, āvuso pāthikaputta, pāvaḷā su nāma te pīṭhakasmiṃ allīnā, pīṭhakaṃ su nāma te pāvaḷāsu allīnaṃ?

Tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappasi, na sakkosi āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Này Bhaggava, khi được nói vậy, lõa thể Pātikaputta tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
Evampi kho, bhaggava, vuccamāno acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṃ.

Này Bhaggava, khi vị đại thần Licchavi biết được:
Yadā kho so, bhaggava, licchavimahāmatto aññāsi:

Lõa thể Pāthikaputta này đã bị thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
‘parābhūtarūpo ayaṃ acelo pāthikaputto āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Người ấy liền đến Hội chúng ấy báo tin:
Atha taṃ parisaṃ āgantvā evamārocesi:

“Lõa thể Pātikaputta đã thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
‘parābhūtarūpo, bho, acelo pāthikaputto āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Hội chúng ấy:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhaggava, taṃ parisaṃ etadavocaṃ:

Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyya.

Nếu quí vị Licchavi nghĩ rằng:
Sace pāyasmantānaṃ licchavīnaṃ evamassa—

“Chúng ta hãy cột lõa thể Pātikaputta với dây thừng, và dùng bò kéo ông ấy lại đây, Pātikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy.
mayaṃ acelaṃ pāthikaputtaṃ varattāhi bandhitvā goyugehi āviñcheyyāmāti, tā varattā chijjeyyuṃ pāthikaputto vā.

Lõa thể Pātikaputta không có thể, nếu không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Abhabbo pana acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Này Bhaggava, lúc ấy Jāliya, đệ tử của Dārupatti, từ chỗ ngồi đứng dậy và nói với Hội chúng ấy:
Atha kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī uṭṭhāyāsanā taṃ parisaṃ etadavoca:

“Các Hiền giả hãy chờ một lát; để tôi đi xem có thể đưa lõa thể Pātikaputta đến Hội chúng này hay không?”
‘tena hi, bho, muhuttaṃ tāva āgametha, yāvāhaṃ gacchāmi; appeva nāma ahampi sakkuṇeyyaṃ acelaṃ pāthikaputtaṃ imaṃ parisaṃ ānetun’ti.

Này Bhaggava, rồi Jāliya, đệ tử của Dārupatti đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp mặt lõa thể Pātikaputta và nói với ông ấy:
Atha kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā acelaṃ pāthikaputtaṃ etadavoca:

Này bạn Pātikaputta hãy đến! Các Licchavi danh tiếng đã đến, và các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến; còn Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
‘abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkantaṃ te seyyo, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā. Samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno.

Này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả đã tuyên bố giữa Hội chúng Vesāli:
Bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṃ parisati vācā—

“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo; ahampi ñāṇavādo.

Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassetuṃ.

Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṃ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṃ gaccheyyaṃ.

Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ kareyyāma.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, dvāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṃ karissāmi.

Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṃ karissāmi.

Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṃ yāvatakaṃ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karissati, taddiguṇaṃ taddiguṇāhaṃ karissāmī”ti

“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
Abhikkamasseva kho, āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṃ.

Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṃyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṃ nisinno’ti.

Này Hiền giả Pātikaputta, Sa môn Gotama đã nói với Hội chúng về Hiền giả như sau:
Bhāsitā kho panesā, āvuso pāthikaputta, samaṇena gotamena parisati vācā—

Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Nếu quí vị Licchavi nghĩ rằng:
Sace pāyasmantānaṃ licchavīnaṃ evamassa—

“Chúng ta hãy cột lõa thể Pātikaputta với dây thừng, và dùng bò kéo ông ấy lại đây, Pātikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy.
mayaṃ acelaṃ pāthikaputtaṃ varattāhi bandhitvā goyugehi āviñcheyyāmāti, tā varattā chijjeyyuṃ pāthikaputto vā.

Lõa thể Pātikaputta không có thể, nếu không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Abhabbo pana acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Này Hiền giả Pātikaputta hãy đến. Nếu Hiền giả đến, chúng tôi sẽ làm cho Hiền giả thắng, và làm cho Sa môn Gotama thất bại.”
Abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkamaneneva te jayaṃ karissāma, samaṇassa gotamassa parājayan’ti.

Này Bhaggava, khi được nghe nói vậy, lõa thể Pātikaputta, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
Evaṃ vutte, bhaggava, acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṃ.

Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti nói với lõa thể Pātikaputta:
Atha kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī acelaṃ pāthikaputtaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Pāthikaputta sao lại vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính vào mông của Hiền giả.
‘kiṃ su nāma te, āvuso pāthikaputta, pāvaḷā su nāma te pīṭhakasmiṃ allīnā, pīṭhakaṃ su nāma te pāvaḷāsu allīnaṃ?

Tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappasi, na sakkosi āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Này Bhaggava, được nói vậy, lõa thể Pāthikaputta, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
Evampi kho, bhaggava, vuccamāno acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātunti.

Này Bhaggava, khi Jāliya, đệ tử của Dārupatti biết được:
Yadā kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī aññāsi:

Lõa thể Pāthikaputta nay đã bị thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, lại trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy, liền nói với ông ấy:
‘parābhūtarūpo ayaṃ acelo pāthikaputto āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti, atha naṃ etadavoca—

Này Hiền giả Pāthikaputta, thuở xưa con sư tử vua các loài thú suy nghĩ:
Bhūtapubbaṃ, āvuso pāthikaputta, sīhassa migarañño etadahosi:

“Ta hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt.
‘yannūnāhaṃ aññataraṃ vanasaṇḍaṃ nissāya āsayaṃ kappeyyaṃ.

Sau khi xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại.
Tatrāsayaṃ kappetvā sāyanhasamayaṃ āsayā nikkhameyyaṃ, āsayā nikkhamitvā vijambheyyaṃ, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokeyyaṃ, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ nadeyyaṃ, tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā gocarāya pakkameyyaṃ.

tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại rồi trở về sào huyệt lại”.
So varaṃ varaṃ migasaṅghe vadhitvā mudumaṃsāni mudumaṃsāni bhakkhayitvā tameva āsayaṃ ajjhupeyyan’ti.

“Này Hiền giả, con sư tử ấy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, nó đi đến chỗ các thú qua lại. Tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại rồi trở về sào huyệt lại.
Atha kho, āvuso, so sīho migarājā aññataraṃ vanasaṇḍaṃ nissāya āsayaṃ kappesi. Tatrāsayaṃ kappetvā sāyanhasamayaṃ āsayā nikkhami, āsayā nikkhamitvā vijambhi, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokesi, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ nadi, tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā gocarāya pakkāmi. So varaṃ varaṃ migasaṅghe vadhitvā mudumaṃsāni mudumaṃsāni bhakkhayitvā tameva āsayaṃ ajjhupesi.

“Này Hiền giả Pāthikaputta, có con chó rừng già kiêu ngạo và mạnh mẽ, thường sống bằng đồ ăn thừa của con sư tử, vua các loài thú.
Tasseva kho, āvuso pāthikaputta, sīhassa migarañño vighāsasaṃvaḍḍho jarasiṅgālo ditto ceva balavā ca.

Con chó rừng ấy suy nghĩ:
Atha kho, āvuso, tassa jarasiṅgālassa etadahosi:

“Ta là ai, và con sư tử, vua các loài thú, là ai?
‘ko cāhaṃ, ko sīho migarājā.

Ta hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt.
Yannūnāhampi aññataraṃ vanasaṇḍaṃ nissāya āsayaṃ kappeyyaṃ.

Sau khi xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại.
Tatrāsayaṃ kappetvā sāyanhasamayaṃ āsayā nikkhameyyaṃ, āsayā nikkhamitvā vijambheyyaṃ, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokeyyaṃ, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ nadeyyaṃ, tikkhattuṃ sīhanādaṃ naditvā gocarāya pakkameyyaṃ.

Tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại, rồi trở về sào huyệt lại.”
So varaṃ varaṃ migasaṅghe vadhitvā mudumaṃsāni mudumaṃsāni bhakkhayitvā tameva āsayaṃ ajjhupeyyan’ti.

Này Hiền giả, con chó rừng kia ý cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và định ba lần rống tiếng rống con sư tử.
Atha kho so, āvuso, jarasiṅgālo aññataraṃ vanasaṇḍaṃ nissāya āsayaṃ kappesi.

Nhưng nó chỉ kêu lên tiếng loại chó rừng, tiếng sủa loại chó rừng. Ai có thể so sánh tiếng sủa con chó rừng đê tiện với tiếng rống con sư tử?
Tatrāsayaṃ kappetvā sāyanhasamayaṃ āsayā nikkhami, āsayā nikkhamitvā vijambhi, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokesi, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṃ sīhanādaṃ nadissāmīti siṅgālakaṃyeva anadi bheraṇḍakaṃyeva anadi, ke ca chave siṅgāle, ke pana sīhanādeti.

Cũng vậy, này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṃ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṃ maññasi.

Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṃ arahantānaṃ sammāsambuddhānaṃ āsādanāti.

Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupati dầu có dùng ví dụ ấy cũng không thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi,
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī iminā opammena neva asakkhi acelaṃ pāthikaputtaṃ tamhā āsanā cāvetuṃ.

liền nói với ông ấy:
Atha naṃ etadavoca:

Chó rừng nhìn tự thân,
Tự nghĩ là sư tử.
Nó sủa tiếng chó rừng,
Loại chó rừng đê tiện.
Chó rừng sủa là ai?
Ai rống tiếng sư tử?
‘Sīhoti attānaṃ samekkhiyāna,
Amaññi kotthu migarājāhamasmi;
Tatheva so siṅgālakaṃ anadi,
Ke ca chave siṅgāle ke pana sīhanādeti.

“Cũng vậy, này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṃ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṃ maññasi.

Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A lán hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṃ arahantānaṃ sammāsambuddhānaṃ āsādanā’ti.

Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti, dầu có dùng ví dụ ấy cũng không có thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi; liền nói với ông ấy:
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī imināpi opammena neva asakkhi acelaṃ pāthikaputtaṃ tamhā āsanā cāvetuṃ; Atha naṃ etadavoca:

Bước theo sau kẻ khác,
‘Aññaṃ anucaṅkamanaṃ,
To xác nhờ đồ thừa,
Attānaṃ vighāse samekkhiya;
Chính mình vẫn chưa thấy,
Yāva attānaṃ na passati,
Mạo danh chúa sơn lâm,
Kotthu tāva byagghoti maññati.
Nó sủa tiếng chó rừng
Tatheva so siṅgālakaṃ anadi,
Loại chó rừng đê tiện,
Sao rống tiếng Sư tử?
Ke ca chave siṅgāle ke pana sīhanādeti.

“Cũng vậy này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṃ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṃ maññasi.

Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṃ arahantānaṃ sammāsambuddhānaṃ āsādanā’ti.

Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti, dầu có dùng ví dụ ấy, cũng không thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi; liền về Hội chúng ấy và báo tin:
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī imināpi opammena neva asakkhi acelaṃ pāthikaputtaṃ tamhā āsanā cāvetuṃ; Atha naṃ etadavoca:

Ăn cóc, chuột kho thóc,
Ăn xác quăng nghĩa địa,
Sống Ðại lâm, Không lâm,
Tự nghĩ là vua thú.
Nó sủa tiếng chó rừng,
Loại chó rừng đê tiện.
Chó rừng sủa là ai?
Ai rống tiếng sư tử?
‘Bhutvāna bheke khalamūsikāyo,
Kaṭasīsu khittāni ca koṇapāni
Mahāvane suññavane vivaḍḍho,
Amaññi kotthu migarājāhamasmi;
Tatheva so siṅgālakaṃ anadi,
Ke ca chave siṅgāle ke pana sīhanādeti.

“Cũng vậy này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṃ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṃ maññasi.

Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṃ arahantānaṃ sammāsambuddhānaṃ āsādanā’ti.

Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti, dầu có dùng ví dụ ấy, cũng không thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi; liền về Hội chúng ấy và báo tin:
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī imināpi opammena neva asakkhi acelaṃ pāthikaputtaṃ tamhā āsanā cāvetuṃ; Atha taṃ parisaṃ āgantvā evamārocesi:

“Lõa thể Pātikaputta đã thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
‘parābhūtarūpo, bho, acelo pāthikaputto āyāmi āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṃsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.

Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với hội chúng ấy:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhaggava, taṃ parisaṃ etadavocaṃ:

“Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thì không có thể đến gặp mặt Ta được.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng: “Ta tuy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, có thể đến gặp mặt Sa môn Gotama được”, thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyya.

Nếu quý vị Licchavi nghĩ rằng: “Chúng ta hãy cột lõa thể Pātikaputta với dây thừng và dùng bò kéo ông ấy lại đây”. Pātikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy.
Sacepāyasmantānaṃ licchavīnaṃ evamassa—mayaṃ acelaṃ pāthikaputtaṃ varattāhi bandhitvā nāgehi āviñcheyyāmāti. Tā varattā chijjeyyuṃ pāthikaputto vā.

Lõa thể Pātikaputta, không có khả năng từ bỏ lời nói ấy, không có khả năng từ bỏ tâm ấy, không có khả năng từ bỏ tà kiến ấy, thì không có thể đến gặp mặt Ta được.
Abhabbo pana acelo pāthikaputto taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṃ āgantuṃ.

Nếu ông ấy nghĩ rằng: “Ta tuy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, có thể đến gặp mặt Sa môn Gotama được”, thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
Sacepissa evamassa—ahaṃ taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṃ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.

Này Bhaggava, rồi Ta giảng dạy cho hội chúng ấy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với bài thuyết pháp. Sau khi giảng dạy cho hội chúng ấy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với bài thuyết pháp, Ta khiến cho họ giải thoát đại kiết sử, cứu vớt tám vạn bốn ngàn chúng sanh thoát khỏi đại đọa xứ, Ta nhập thiền quang giới tam muội, bay lên hư không cao đến bảy cây ta-la, phóng hào quang cao đến hơn bảy cây ta-la, khiến cho cháy sáng, rực sáng và Ta hiện ra tại Trùng Các giảng đường ở Ðại Lâm.
Atha khvāhaṃ, bhaggava, taṃ parisaṃ dhammiyā kathāya sandassesiṃ samādapesiṃ samuttejesiṃ sampahaṃsesiṃ, taṃ parisaṃ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā mahābandhanā mokkhaṃ karitvā caturāsītipāṇasahassāni mahāviduggā uddharitvā tejodhātuṃ samāpajjitvā sattatālaṃ vehāsaṃ abbhuggantvā aññaṃ sattatālampi acciṃ abhinimminitvā pajjalitvā dhūmāyitvā mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ paccuṭṭhāsiṃ.

Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đến Ta, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, này Bhaggava, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho ahaṃ, bhaggava, sunakkhattaṃ licchaviputtaṃ etadavocaṃ:

‘Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Có phải điều Ta nói cho Ngươi về lõa thể Pātikaputta, đã được thực hiện đúng như vậy, không có gì khác?
yatheva te ahaṃ acelaṃ pāthikaputtaṃ ārabbha byākāsiṃ, tatheva taṃ vipākaṃ aññathā vā’ti?

‘Bạch Thế Tôn, điều Thế Tôn nói cho con về lõa thể Pātikaputta đã được thực hiện đúng như vậy, không có gì khác.’
‘Yatheva me, bhante, bhagavā acelaṃ pāthikaputtaṃ ārabbha byākāsi, tatheva taṃ vipākaṃ, no aññathā’ti.

‘Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṃ kiṃ maññasi, sunakkhatta,

Sự kiện là như vậy, thì có phải pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện hay không được thực hiện?
yadi evaṃ sante kataṃ vā hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ, akataṃ vā’ti?

‘Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, thì pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện, không phải không thực hiện.’
‘Addhā kho, bhante, evaṃ sante kataṃ hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ, no akatan’ti.

‘Này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi lại nói:
‘Evampi kho maṃ tvaṃ, moghapurisa, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karontaṃ evaṃ vadesi—

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông.”
na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ karotīti.

Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!”
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṃ aparaddhan’ti.

Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi dầu được Ta nói vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Evampi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṃ āpāyiko nerayiko.

Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới.
Aggaññañcāhaṃ, bhaggava, pajānāmi.

Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không có chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy; chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi.
Tañca pajānāmi, tato ca uttaritaraṃ pajānāmi, tañca pajānaṃ na parāmasāmi, aparāmasato ca me paccattaññeva nibbuti viditā, yadabhijānaṃ tathāgato no anayaṃ āpajjati.

Này Bhaggava, có những vị Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự Tại thiên (Issara) tạo ra, do Phạm thiên (Brahma) tạo ra.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā issarakuttaṃ brahmakuttaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapenti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:

“Có phải chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự Tại thiên tạo ra, do Phạm thiên tạo ra?”
‘saccaṃ kira tumhe āyasmanto issarakuttaṃ brahmakuttaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: “Vâng!”
Te ca me evaṃ puṭṭhā, ‘āmo’ti paṭijānanti.

Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:

“Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo thuyền thống là do Tự Tại thiên tạo ra, do Phạm thiên tạo ra”?
‘kathaṃvihitakaṃ pana tumhe āyasmanto issarakuttaṃ brahmakuttaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta.
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti.

Và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Tesāhaṃ puṭṭho byākaromi:

“Chư Hiền giả, có một thời, đến một giai đoạn nào đó, sau một thời gian rất lâu, thế giới này chuyển hoại.
‘Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko saṃvaṭṭati.

Trong khi thế giới chuyển hoại, phần lớn các loài hữu tình chuyển sanh qua Abhassara (Quang Âm thiên).
Saṃvaṭṭamāne loke yebhuyyena sattā ābhassarasaṃvattanikā honti.

Ở tại đây, những loài hữu tình nào do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
Te tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.

Chư Hiền giả, có một thời, đến một giai đoạn nào đó, sau một thời gian rất lâu, thế giới này chuyển thành.
Hoti kho so, āvuso, samayo yaṃ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṃ loko vivaṭṭati.

Phạm cung được hiện ra nhưng trống không.
Vivaṭṭamāne loke suññaṃ brahmavimānaṃ pātubhavati.

Lúc bấy giờ, một loài hữu tình, hoặc thọ mạng đã tận, hay phước báo đã tận, mạng chung từ Quang Âm thiên sanh qua Phạm cung trống không ấy.
Atha kho aññataro satto āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā suññaṃ brahmavimānaṃ upapajjati.

Vị ấy ở tại đấy, do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
So tattha hoti manomayo pītibhakkho sayampabho antalikkhacaro subhaṭṭhāyī, ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhati.

Vị này, tại chỗ ấy, sau khi sống lâu một mình như vậy, khởi ý chán nản, không hoan hỷ và có kỳ vọng:
Tassa tattha ekakassa dīgharattaṃ nivusitattā anabhirati paritassanā uppajjati—

“Mong sao có các loài hữu tình khác cũng đến tại chỗ này!”
aho vata aññepi sattā itthattaṃ āgaccheyyunti.

Lúc bấy giờ, các loài hữu tình khác, hoặc thọ mạng đã tận, hay phước báo đã tận, bị mệnh chung và từ thân Quang Âm thiên sanh qua Phạm cung trống không để làm bạn với vị hữu tình kia.
Atha aññepi sattā āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā suññaṃ brahmavimānaṃ upapajjanti tassa sattassa sahabyataṃ.

Các loại hữu tình này ở đây cũng có ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
Tepi tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṃpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino, ciraṃ dīghamaddhānaṃ tiṭṭhanti.

“Lúc bấy giờ, này các Hiền giả, vị hữu tình sanh qua đầu tiên nghĩ rằng:
Tatrāvuso, yo so satto paṭhamaṃ upapanno, tassa evaṃ hoti—

“Ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Những loài hữu tình ấy do chính ta hóa sanh.
ahamasmi brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṃ, mayā ime sattā nimmitā.

Tại sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Vì chính do ta khởi niệm:
Mamañhi pubbe etadahosi—

Mong sao các loài hữu tình khác cũng đến tại chỗ này!
aho vata aññepi sattā itthattaṃ āgaccheyyunti;

Chính do sở nguyện của ta mà những loại hữu tình ấy đến tại chỗ này”.
iti mama ca manopaṇidhi. Ime ca sattā itthattaṃ āgatāti.

Các loài hữu tình đến sau cùng nghĩ như thế này:
Yepi te sattā pacchā upapannā, tesampi evaṃ hoti—

Vị ấy là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh.
ayaṃ kho bhavaṃ brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṃ;

Chúng ta do vị Phạm thiên này hóa sanh.
iminā mayaṃ bhotā brahmunā nimmitā.

Tại sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Vì chúng ta thấy vị này sanh trước ở đây rồi, còn chúng ta thì sanh sau”.
Imañhi mayaṃ addasāma idha paṭhamaṃ upapannaṃ; mayaṃ panāmha pacchā upapannāti.

“Này các Hiền giả, vị hữu tình sanh ra đầu tiên ấy, sống được lâu hơn, sắc tướng tốt đẹp hơn, và được nhiều uy quyền hơn.
Tatrāvuso, yo so satto paṭhamaṃ upapanno, so dīghāyukataro ca hoti vaṇṇavantataro ca mahesakkhataro ca.

Còn các loài hữu tình sanh sau thì sống ngắn hơn, sắc tướng ít tốt đẹp hơn, và được ít uy quyền hơn.
Ye pana te sattā pacchā upapannā, te appāyukatarā ca honti dubbaṇṇatarā ca appesakkhatarā ca.

Này các Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra. Một trong các loài hữu tình ấy, sau khi từ bỏ thân kia lại thác sanh đến cõi này.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati, yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.

Khi đến cõi này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.

Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ tới đời sống ấy.
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ pubbenivāsaṃ anussarati; tato paraṃ nānussarati.

Vị ấy nói rằng:
So evamāha:

“Vị kia là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng Tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Chúng ta do vị Phạm thiên ấy hóa sanh. Vị ấy là thường hằng, kiên cố, thường trú, không biến chuyển, thường trú như vậy mãi mãi.
“yo kho so bhavaṃ brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṃ, yena mayaṃ bhotā brahmunā nimmitā. So nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tatheva ṭhassati.

Còn chúng ta do vị Phạm thiên ấy hóa sanh đến tại chỗ này. Chúng ta là vô thường, không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến tại chỗ này”!
Ye pana mayaṃ ahumhā tena bhotā brahmunā nimmitā, te mayaṃ aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṃ āgatā”ti.

Này các Hiền giả, như vậy quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự Tại thiên tạo ra, là do Phạm thiên tạo ra.”
Evaṃvihitakaṃ no tumhe āyasmanto issarakuttaṃ brahmakuttaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti.

Các vị ấy nói như sau:
Te evamāhaṃsu:

“Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama nói:
‘evaṃ kho no, āvuso gotama, sutaṃ, yathevāyasmā gotamo āhā’ti.

Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới.
Aggaññañcāhaṃ, bhaggava, pajānāmi.

Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không có chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy; chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi.
Tañca pajānāmi, tato ca uttaritaraṃ pajānāmi, tañca pajānaṃ na parāmasāmi, aparāmasato ca me paccattaññeva nibbuti viditā. Yadabhijānaṃ tathāgato no anayaṃ āpajjati.

Này Bhaggava, một số Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi dục lạc.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā khiḍḍāpadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapenti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:

“Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc vì dục lạc?”
‘saccaṃ kira tumhe āyasmanto khiḍḍāpadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: Vâng.
Te ca me evaṃ puṭṭhā ‘āmo’ti paṭijānanti.

Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:

“Sao chư Hiền giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới truyền thống, là do nhiễm hoặc bởi dục lạc?”
‘kathaṃvihitakaṃ pana tumhe āyasmanto khiḍḍāpadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi như vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti,

được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
tesāhaṃ puṭṭho byākaromi:

“Này các Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Khiddāpadosikā (bị nhiễm hoặc bởi dục lạc). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc, nên bị thất niệm. Do thất niệm, chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân thể của họ.
‘Santāvuso, khiḍḍāpadosikā nāma devā. Te ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharanti. Tesaṃ ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṃ viharataṃ sati sammussati, satiyā sammosā te devā tamhā kāyā cavanti.

Các hiền giả, sự tình này xảy ra. Một trong các loài hữu tình kia khi thác sanh, từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến chỗ này.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati, yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati,

Khi đến tại chỗ này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati,

Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống quá khứ ấy chớ không nhớ xa hơn đời sống ấy. Vị ấy nói:
agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ pubbenivāsaṃ anussarati; tato paraṃ nānussarati. So evamāha:

“Những vị Thiên không bị nhiễm hoặc vì dục lạc, họ sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu dục lạc, nên không bị thất niệm. Nhờ không thất niệm, nên Chư thiên ấy không thác sanh, không từ bỏ thân thể của họ.
“ye kho te bhonto devā na khiḍḍāpadosikā te na ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharanti. Tesaṃ nātivelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṃ viharataṃ sati na sammussati, satiyā asammosā te devā tamhā kāyā na cavanti,

Họ sống thường hằng, kiên cố, thường trú, không bị chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi.
niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṃ tatheva ṭhassanti.

Còn chúng ta đã bị nhiễm hoặc bởi dục lạc, sống lâu ngày mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì chúng ta sống lâu ngày mê say trong hý tiếu dục lạc nên bị thất niệm. Do thất niệm, chúng ta từ bỏ thân thể này.
Ye pana mayaṃ ahumhā khiḍḍāpadosikā te mayaṃ ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharimhā, tesaṃ no ativelaṃ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṃ viharataṃ sati sammussati, satiyā sammosā evaṃ mayaṃ tamhā kāyā cutā,

Chúng ta sống vô thường, không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến chỗ này”.
aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṃ āgatā”ti.

Này các Tôn giả, như vậy quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc vì dục lạc có phải không?”
Evaṃvihitakaṃ no tumhe āyasmanto khiḍḍāpadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti.

Các vị ấy nói như sau:
Te evamāhaṃsu:

Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói:
‘evaṃ kho no, āvuso gotama, sutaṃ, yathevāyasmā gotamo āhā’ti.

Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới,...
Aggaññañcāhaṃ, bhaggava, pajānāmi ...pe...

mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi”.
yadabhijānaṃ tathāgato no anayaṃ āpajjati.

Này Bhaggava, một số Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā manopadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapenti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:

Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí?
‘saccaṃ kira tumhe āyasmanto manopadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: “Vâng!”
Te ca me evaṃ puṭṭhā ‘āmo’ti paṭijānanti.

Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:

Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí?
‘kathaṃvihitakaṃ pana tumhe āyasmanto manopadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti.

Và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Tesāhaṃ puṭṭho byākaromi:

Chư Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Manopadosikā (nhiễm hoặc bởi tâm trí.) Họ sống lâu ngày, nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau. Vì sống lâu ngày, nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của họ oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí oán ghét lẫn nhau, nên thân họ mệt mỏi, tâm họ mệt mỏi. Các hạng chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân này của họ.
‘Santāvuso, manopadosikā nāma devā. Te ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyanti. Te ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni padūsenti. Te aññamaññaṃ paduṭṭhacittā kilantakāyā kilantacittā. Te devā tamhā kāyā cavanti.

Các Hiền giả, sự tình này xảy ra. Một trong các loài hữu tình kia, khi thác sanh, từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến cõi này.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati, yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.

Khi sanh đến cõi này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.

Sau khi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống quá khứ ấy chớ không nhớ xa hơn đời sống ấy. Vị ấy nói:
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ pubbenivāsaṃ anussarati, tato paraṃ nānussarati. So evamāha:

“Chư Thiên không bị nhiễm hoặc bởi tâm trí, họ sống lâu ngày không bị nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của họ không oán ghét nhau. Vì tâm trí họ không oán ghét nhau, nên thân họ không mệt mỏi, tâm họ không mệt mỏi.
“ye kho te bhonto devā na manopadosikā te nātivelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyanti. Te nātivelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni nappadūsenti. Te aññamaññaṃ appaduṭṭhacittā akilantakāyā akilantacittā. Te devā tamhā kāyā na cavanti,

Hạng chư Thiên ấy không thác sanh từ bỏ thân thể của họ, sống thường hằng, kiên cố, thường trú, không bị chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi.
niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṃ tatheva ṭhassanti.

Còn chúng ta bị nhiễm hoặc bởi tâm trí, sống lâu ngày nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, nên tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau, nên thân mệt mỏi và tâm mệt mỏi. Chúng thác sanh, từ bỏ thân này.
Ye pana mayaṃ ahumhā manopadosikā, te mayaṃ ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyimhā. Te mayaṃ ativelaṃ aññamaññaṃ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni padūsimhā. Te mayaṃ aññamaññaṃ paduṭṭhacittā kilantakāyā kilantacittā. Evaṃ mayaṃ tamhā kāyā cutā,

sống vô thường không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến tại chỗ này”.
aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṃ āgatā”ti.

Như vậy, này các Hiền giả, quý vị tuyên bố về khởi nguyên của thế giới theo truyền thống là do bị nhiễm hoặc bởi tâm trí.”
Evaṃvihitakaṃ no tumhe āyasmanto manopadosikaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti.

Họ trả lời như sau:
Te evamāhaṃsu:

Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói:
‘evaṃ kho no, āvuso gotama, sutaṃ, yathevāyasmā gotamo āhā’ti.

Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên của thế giới...
Aggaññañcāhaṃ, bhaggava, pajānāmi ...pe...

mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi.
yadabhijānaṃ tathāgato no anayaṃ āpajjati.

Này Bhaggava, một số Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapenti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadāmi:

Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh?
‘saccaṃ kira tumhe āyasmanto adhiccasamuppannaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: “vâng”.
Te ca me evaṃ puṭṭhā ‘āmo’ti paṭijānanti.

Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṃ evaṃ vadāmi:

Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truền thống là do vô nhân sanh?
‘kathaṃvihitakaṃ pana tumhe āyasmanto adhiccasamuppannaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti.

Được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Tesāhaṃ puṭṭho byākaromi:

Chư Hiền giả, có những chư Thiên gọi là Vô tưởng hữu tình.
‘Santāvuso, asaññasattā nāma devā.

Khi một tưởng niệm khởi lên, thời chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân chư Thiên của mình.
Saññuppādā ca pana te devā tamhā kāyā cavanti.

Chư Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra. Một trong loài hữu tình ấy, khi thác sanh, từ bỏ thân chư Thiên ấy của mình, lại sanh đến cõi này.
Ṭhānaṃ kho panetaṃ, āvuso, vijjati yaṃ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṃ āgacchati.

Khi đến tại chỗ này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Itthattaṃ āgato samāno agārasmā anagāriyaṃ pabbajati.

Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Vị ấy nhớ đến khi tưởng niệm phát sanh, chớ không nhớ xa hơn nữa.
Agārasmā anagāriyaṃ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṃ cetosamādhiṃ phusati, yathāsamāhite citte taṃ saññuppādaṃ anussarati, tato paraṃ nānussarati’.

Vị ấy nói:
So evamāha:

“Bản ngã về thế giới do vô nhân sanh.
‘adhiccasamuppanno attā ca loko ca.

Tại sao vậy?
Taṃ kissa hetu?

Tôi trước kia không có, nay có. Từ nơi trạng thái không có, tôi trở thành loại hữu tình”.
Ahañhi pubbe nāhosiṃ, somhi etarahi ahutvā santatāya pariṇato’ti.

Như vậy, này các Tôn giả, quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh có phải như vậy không?
‘Evaṃvihitakaṃ no tumhe āyasmanto adhiccasamuppannaṃ ācariyakaṃ aggaññaṃ paññapethā’ti?

Họ trả lời:
Te evamāhaṃsu:

‘Này Hiền giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói:’
‘evaṃ kho no, āvuso gotama, sutaṃ yathevāyasmā gotamo āhā’ti.

“Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới, Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy. Chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi”.
Aggaññañcāhaṃ, bhaggava, pajānāmi tañca pajānāmi, tato ca uttaritaraṃ pajānāmi, tañca pajānaṃ na parāmasāmi, aparāmasato ca me paccattaññeva nibbuti viditā. Yadabhijānaṃ tathāgato no anayaṃ āpajjati.

Này Bhaggava, Ta tuyên bố như vậy, Ta quan niệm như vậy. Nhưng một số Sa môn, Bà la môn lại bài xích Ta một cách không thật, trống không, hư ngụy, giả dối:
Evaṃvādiṃ kho maṃ, bhaggava, evamakkhāyiṃ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti:

Sa môn Gotama và các vị Tỷ kheo là điên đảo.
‘viparīto samaṇo gotamo bhikkhavo ca.

Sa môn Gotama đã tuyên bố:
Samaṇo gotamo evamāha—

“Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là bất tịnh”.
yasmiṃ samaye subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja viharati, sabbaṃ tasmiṃ samaye asubhantveva pajānātī’ti.

Nhưng này Bhaggava, Ta không có nói như vậy:
Na kho panāhaṃ, bhaggava, evaṃ vadāmi:

“Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là bất tịnh.”
‘yasmiṃ samaye subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja viharati, sabbaṃ tasmiṃ samaye asubhantveva pajānātī’ti.

Này Bhaggava, Ta nói như sau:
Evañca khvāhaṃ, bhaggava, vadāmi:

“Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là thanh tịnh.”
‘yasmiṃ samaye subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja viharati, subhantveva tasmiṃ samaye pajānātī’”ti.

“Bạch Thế Tôn, chính họ là điên đảo khi họ chỉ trích Thế Tôn và các Tỷ kheo là điên đảo..
“Te ca, bhante, viparītā, ye bhagavantaṃ viparītato dahanti bhikkhavo ca.

Con tin tưởng hoan hỷ đối với Thế Tôn khiến con tin rằng Thế Tôn có thể dạy cho con đến thanh tịnh giải thoát.”
Evaṃpasanno ahaṃ, bhante, bhagavati. Pahoti me bhagavā tathā dhammaṃ desetuṃ, yathā ahaṃ subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja vihareyyan”ti.

Này Bhaggava, thật khó cho Ngươi khi Ngươi theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác để có thể đạt được thanh tịnh, giải thoát.
“Dukkaraṃ kho etaṃ, bhaggava, tayā aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrāyogena aññatrācariyakena subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja viharituṃ.

Này Bhaggava, hãy đặt nặng lòng tin ở nơi Ta, hãy khéo gìn giữ lòng tin tưởng ấy.”
Iṅgha tvaṃ, bhaggava, yo ca te ayaṃ mayi pasādo, tameva tvaṃ sādhukamanurakkhā”ti.

“Bạch Thế Tôn, nếu thật khó cho con, khi con theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác, để có thể đạt được thanh tịnh giải thoát.
“Sace taṃ, bhante, mayā dukkaraṃ aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrāyogena aññatrācariyakena subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja viharituṃ.

Thời Bạch Thế Tôn, ít nhất con cũng đặt nặng lòng tin vào Thế Tôn, và con sẽ khéo gìn giữ lòng tin tưởng ấy.”
Yo ca me ayaṃ, bhante, bhagavati pasādo, tamevāhaṃ sādhukamanurakkhissāmī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Du sĩ Bhaggava hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.
Attamano bhaggavagotto paribbājako bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Pāthikasuttaṃ niṭṭhitaṃ paṭhamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt