Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 31

Trường Bộ 31
Dīgha Nikāya 31

Kinh Giáo Thọ Thi-ca-la-việt
Siṅgālasutta

Như vậy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn sống ở Rājagaha (Vương Xá thành), tại Veḷuvana (Trúc Lâm), Kalandakanivāpa (chỗ tìm ăn của loài sóc).
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Lúc bấy giờ, Singālaka (Thi-ca-la-việt), gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng—
Tena kho pana samayena siṅgālako gahapatiputto kālasseva uṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā allavattho allakeso pañjaliko puthudisā namassati—

Hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.
puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ disaṃ.

Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, cầm y bát vào thành Vương Xá khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi.

Thế Tôn thấy Singālaka, gia chủ tử, dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm nước, với tóc thấm nước, chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.
Addasā kho bhagavā siṅgālakaṃ gahapatiputtaṃ kālasseva vuṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā allavatthaṃ allakesaṃ pañjalikaṃ puthudisā namassantaṃ—puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ disaṃ.

Thấy vậy Ngài nói với Singālaka, gia chủ tử:
Disvā siṅgālakaṃ gahapatiputtaṃ etadavoca:

“Này Gia chủ tử, vì sao Ngươi dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt chấp tay đảnh lễ các phương hướng, hướng Ðông... hướng Thượng?”
“kiṃ nu kho tvaṃ, gahapatiputta, kālasseva vuṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā allavattho allakeso pañjaliko puthudisā namassasi—puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ disan”ti?

“Bạch Thế Tôn, thân phụ con khi gần chết có dặn con:
“Pitā maṃ, bhante, kālaṃ karonto evaṃ avaca:

‘Này con thân yêu, hãy đảnh lễ các phương hướng.’
‘disā, tāta, namasseyyāsī’ti.

Bạch Thế Tôn, con kính tín, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ lời nói của thân phụ con, buổi sáng dậy sớm, ra khỏi thành Vương Xá, với áo thấm ướt, với tóc thấm ướt, chấp tay đảnh lễ các phương hướng,—
So kho ahaṃ, bhante, pituvacanaṃ sakkaronto garuṃ karonto mānento pūjento kālasseva uṭṭhāya rājagahā nikkhamitvā allavattho allakeso pañjaliko puthudisā namassāmi—

hướng Ðông, hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc, hướng Hạ, hướng Thượng.”
puratthimaṃ disaṃ dakkhiṇaṃ disaṃ pacchimaṃ disaṃ uttaraṃ disaṃ heṭṭhimaṃ disaṃ uparimaṃ disan”ti.

“Này Gia chủ tử, trong luật pháp của bậc Thánh, lễ bái sáu phương không phải như vậy.”
“Na kho, gahapatiputta, ariyassa vinaye evaṃ cha disā namassitabbā”ti.

“Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, thế nào là lễ bái sáu phương? Bạch Thế Tôn, trong luật pháp của bậc Thánh, đảnh lễ sáu phương phải như thế nào?
“Yathā kathaṃ pana, bhante, ariyassa vinaye cha disā namassitabbā?

Lành thay! Thế Tôn hãy giảng pháp ấy cho con!”
Sādhu me, bhante, bhagavā tathā dhammaṃ desetu, yathā ariyassa vinaye cha disā namassitabbā”ti.

“Này Gia chủ tử, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.”
“Tena hi, gahapatiputta, suṇohi sādhukaṃ manasikarohi bhāsissāmī”ti.

Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Singālaka, gia chủ tử vâng lời Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho siṅgālako gahapatiputto bhagavato paccassosi.

Thế Tôn giảng như sau:
Bhagavā etadavoca:

“Này Gia chủ tử, đối với vị Thánh đệ tử, bốn nghiệp phiền não được diệt trừ, không làm ác nghiệp theo bốn lý do, không theo sáu nguyên nhân để phung phí tài sản. Vị này, nhờ từ bỏ mười bốn ác pháp, trở thành vị che chở sáu phương;
“Yato kho, gahapatiputta, ariyasāvakassa cattāro kammakilesā pahīnā honti, catūhi ca ṭhānehi pāpakammaṃ na karoti, cha ca bhogānaṃ apāyamukhāni na sevati, so evaṃ cuddasa pāpakāpagato chaddisāpaṭicchādī

Vị này đã thực hành để chiến thắng hai đời, vị này đã chiến thắng đời này và đời sau.
ubholokavijayāya paṭipanno hoti. Tassa ayañceva loko āraddho hoti paro ca loko.

Sau khi thân hoại mạng chung, vị này sanh ở thiện thú, Thiên giới.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjati.

Thế nào là bốn nghiệp phiền não đã được diệt trừ?
Katamassa cattāro kammakilesā pahīnā honti?

Này Gia chủ tử, đó là nghiệp phiền não sát sanh, nghiệp phiền não trộm cắp, nghiệp phiền não tà dâm, nghiệp phiền não nói láo.
Pāṇātipāto kho, gahapatiputta, kammakileso, adinnādānaṃ kammakileso, kāmesumicchācāro kammakileso, musāvādo kammakileso.

Bốn nghiệp phiền não này đã được trừ diệt.”
Imassa cattāro kammakilesā pahīnā hontī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Sát sanh và trộm cắp,
Nói láo, lấy vợ người,
Kẻ trí không tán thán,
Những hạnh nghiệp như vậy.
“Pāṇātipāto adinnādānaṃ,
Musāvādo ca vuccati;
Paradā­ra­gamanañ­ceva,
Nappasaṃsanti paṇḍitā”ti.

“Thế nào là không làm ác nghiệp theo bốn lý do?
“Katamehi catūhi ṭhānehi pāpakammaṃ na karoti?

Ác nghiệp làm do tham dục, ác nghiệp làm do sân hận, ác nghiệp làm do ngu si, ác nghiệp làm do sợ hãi.
Chandāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti, dosāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti, mohāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti, bhayāgatiṃ gacchanto pāpakammaṃ karoti.

Này Gia chủ tử, vì vị Thánh đệ tử không tham dục, không sân hận, không ngu si, không sợ hãi;
Yato kho, gahapatiputta, ariyasāvako neva chandāgatiṃ gacchati, na dosāgatiṃ gacchati, na mohāgatiṃ gacchati, na bhayāgatiṃ gacchati;

nên không làm ác nghiệp theo bốn lý do.”
imehi catūhi ṭhānehi pāpakammaṃ na karotī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Ai phản lại Chánh pháp,
Vì tham, sân, bố, si,
Thanh danh bị sứt mẻ
Như mặt trăng đêm khuyết.
“Chandā dosā bhayā mohā,
yo dhammaṃ ativattati;
Nihīyati yaso tassa,
kāḷapakkheva candimā.

Ai không phản Chánh pháp,
Vì tham, sân, bố, si,
Thanh danh được tròn đủ,
Như mặt trăng đêm đầy.
Chandā dosā bhayā mohā,
yo dhammaṃ nātivattati;
Āpūrati yaso tassa,
sukkapakkheva candimā”ti.

“Thế nào là không theo sáu nguyên nhân phung phí tài sản?
“Katamāni cha bhogānaṃ apāyamukhāni na sevati?

Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu là nguyên nhân phung phí tài sản. Du hành đường phố phi thời là nguyên nhân phung phí tài sản. La cà đình đám hí viện là nguyên nhân phung phí tài sản. Ðam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du ác hữu là nguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản.
Surāmerayamajjappamādaṭṭhānānuyogo kho, gahapatiputta, bhogānaṃ apāyamukhaṃ, vikālavisikhācariyānuyogo bhogānaṃ apāyamukhaṃ, samajjābhicaraṇaṃ bhogānaṃ apāyamukhaṃ, jūtappamādaṭṭhānānuyogo bhogānaṃ apāyamukhaṃ, pāpamittānuyogo bhogānaṃ apāyamukhaṃ, ālasyānuyogo bhogānaṃ apāyamukhaṃ.

Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sáu nguy hiểm:
Cha khome, gahapatiputta, ādīnavā surāmerayamajjappamādaṭṭhānānuyoge.

Tài sản hiện tại bị tổn thất, đấu tranh tăng trưởng, bệnh tật dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ âm tàng, và thứ sáu là trí lực tổn hại.
Sandiṭṭhikā dhanajāni, kalahappavaḍḍhanī, rogānaṃ āyatanaṃ, akittisañjananī, kopīnanidaṃsanī, paññāya dubbalikaraṇītveva chaṭṭhaṃ padaṃ bhavati.

Này Gia chủ tử, đam mê các loại rượu có sau nguy hiểm như vậy.
Ime kho, gahapatiputta, cha ādīnavā surāmerayamajjappamādaṭṭhānānuyoge.

Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm:
Cha khome, gahapatiputta, ādīnavā vikālavisikhācariyānuyoge.

Tự mình không được che chở hộ trì, vợ con không được che chở hộ trì, tài sản không được che chở hộ trì, bị tình nghi là tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não.
Attāpissa agutto arakkhito hoti, puttadāropissa agutto arakkhito hoti, sāpateyyampissa aguttaṃ arakkhitaṃ hoti, saṅkiyo ca hoti pāpakesu ṭhānesu, abhūtavacanañca tasmiṃ rūhati, bahūnañca dukkhadhammānaṃ purakkhato hoti.

Này Gia chủ tử, du hành đường phố phi thời có sáu nguy hiểm như vậy.
Ime kho, gahapatiputta, cha ādīnavā vikālavisikhācariyānuyoge.

Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm:
Cha khome, gahapatiputta, ādīnavā samajjābhicaraṇe.

Luôn luôn tìm xem chỗ nào có múa, chỗ nào có ca, chỗ nào có nhạc, chỗ nào có tán tụng, chỗ nào có nhạc tay, chỗ nào có trống.
Kva naccaṃ, kva gītaṃ, kva vāditaṃ, kva akkhānaṃ, kva pāṇissaraṃ, kva kumbhathunanti.

Này Gia chủ tử, la cà đình đám hý viện có sáu nguy hiểm như vậy.
Ime kho, gahapatiputta, cha ādīnavā samajjābhicaraṇe.

Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm:
Cha khome, gahapatiputta, ādīnavā jūtappamādaṭṭhānānuyoge.

Nếu thắng thì sanh oán thù, nếu thua thì tâm sanh sầu muộn, tài sản hiện tại bị tổn thất, tại hội trường (pháp đình) lời nói không hiệu lực, bằng hữu đồng liêu khinh miệt, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm vì:
Jayaṃ veraṃ pasavati, jino vittamanusocati, sandiṭṭhikā dhanajāni, sabhāgatassa vacanaṃ na rūhati, mittāmaccānaṃ paribhūto hoti, āvāhavivāhakānaṃ apatthito hoti:

‘người đam mê cờ bạc không xứng để có vợ (chồng).’
‘akkhadhutto ayaṃ purisapuggalo nālaṃ dārabharaṇāyā’ti.

Này Gia chủ tử, đam mê cờ bạc có sáu nguy hiểm như vậy.
Ime kho, gahapatiputta, cha ādīnavā jūtappamādaṭṭhānānuyoge.

Này Gia chủ tử, thân cận các ác hữu có sáu nguy hiểm:
Cha khome, gahapatiputta, ādīnavā pāpamittānuyoge.

Những kẻ cờ bạc, loạn hành, nghiện rượu, những kẻ trá ngụy, lường gạt, bạo động là những người bạn, là những thân hữu của người ấy.
Ye dhuttā, ye soṇḍā, ye pipāsā, ye nekatikā, ye vañcanikā, ye sāhasikā. Tyāssa mittā honti te sahāyā.

Này Gia chủ tử, thân cận ác hữu có sáu nguy hiểm như vậy.
Ime kho, gahapatiputta, cha ādīnavā pāpamittānuyoge.

Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm:
Cha khome, gahapatiputta, ādīnavā ālasyānuyoge.

“quá lạnh”, không làm việc; “quá nóng”, không làm việc; “quá trễ” không làm việc; “quá sớm”, không làm việc; “tôi đói quá”, không làm việc; “tôi quá no”, không làm việc.
Atisītanti kammaṃ na karoti, atiuṇhanti kammaṃ na karoti, atisāyanti kammaṃ na karoti, atipātoti kammaṃ na karoti, atichātosmīti kammaṃ na karoti, atidhātosmīti kammaṃ na karoti.

Trong khi những công việc phải làm lại không làm. Tài sản chưa có không xây dựng lên, tài sản có rồi bị tiêu thất.
Tassa evaṃ kiccāpadesabahulassa viharato anuppannā ceva bhogā nuppajjanti, uppannā ca bhogā parikkhayaṃ gacchanti.

Này Gia chủ tử, quen thói lười biếng có sáu nguy hiểm như vậy.”
Ime kho, gahapatiputta, cha ādīnavā ālasyānuyoge”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Có bạn gọi bạn rượu,
Có bạn, bạn bằng mồm,
Bạn lúc thật hữu sự,
Mới xứng danh bạn bè.
“Hoti pānasakhā nāma,
hoti sammiyasammiyo;
Yo ca atthesu jātesu,
sahāyo hoti so sakhā.

Ngủ ngày, thông vợ người,
Ưa đấu tranh, làm hại,
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Ussūraseyyā paradārasevanā,
Verappasavo ca anatthatā ca;
Pāpā ca mittā sukadariyatā ca,
Ete cha ṭhānā purisaṃ dhaṃsayanti.

Ác hữu, ác bạn lữ,
Ác hạnh, hành ác xứ,
Ðời này cả đời sau,
Hai đời, người bị hại.
Pāpamitto pāpasakho,
pāpa­ācāra­gocaro;
Asmā lokā paramhā ca,
ubhayā dhaṃsate naro.

Cờ bạc và đàn bà,
Rượu chè, múa và hát
Ngủ ngày, đi phi thời
Thân ác hữu, xan tham,
Sáu sự não hại người.
Akkhitthiyo vāruṇī naccagītaṃ,
Divā soppaṃ pāricariyā akāle;
Pāpā ca mittā sukadariyatā ca,
Ete cha ṭhānā purisaṃ dhaṃsayanti.

Chơi xúc xắc, uống rượu
Theo đuổi đàn bà người,
Lẽ sống của người khác,
Thân cận kẻ hạ tiện,
Không thân cận bậc trí,
Người ấy tự héo mòn,
Như trăng trong mùa khuyết.
Akkhehi dibbanti suraṃ pivanti,
Yantitthiyo pāṇasamā paresaṃ;
Nihīnasevī na ca vuddhasevī,
Nihīyate kāḷapakkheva cando.

Rượu chè không tiền của,
Khao khát, tìm tửu điếm,
Bị chìm trong nợ nần,
Như chìm trong bồn nước,
Mau chóng tự hại mình,
Như kẻ mất gia đình.
Yo vāruṇī addhano akiñcano,
Pipāso pivaṃ papāgato;
Udakamiva iṇaṃ vigāhati,
Akulaṃ kāhiti khippamattano.

Ai quen thói ngủ ngày,
Thức trọn suốt đêm trường,
Luôn luôn say sướt mướt,
Không thể sống gia đình.
Na divā soppasīlena,
ratti­muṭ­ṭhā­na­dessinā;
Niccaṃ mattena soṇḍena,
sakkā āvasituṃ gharaṃ.

Ở đây ai hay than:
Ôi quá lạnh, quá nóng,
Quá chiều, quá trễ giờ,
Sẽ bỏ bê công việc.
Lợi ích, điều tốt lành,
Bị trôi dạt một bên.
Atisītaṃ atiuṇhaṃ,
atisāyamidaṃ ahu;
Iti vis­saṭṭha­kam­mante,
atthā accenti māṇave.

Ai xem lạnh và nóng,
Nhẹ nhàng hơn cỏ lau,
Làm mọi công chuyện mình,
Hạnh phúc không từ bỏ.
Yodha sītañca uṇhañca,
tiṇā bhiyyo na maññati;
Karaṃ purisakiccāni,
so sukhaṃ na vihāyatī”ti.

“Này Gia chủ từ, có bốn hạng người phải xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn:
“Cattārome, gahapatiputta, amittā mittapatirūpakā veditabbā.

Người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người khéo nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn; người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Aññadatthuharo amitto mittapatirūpako veditabbo, vacīparamo amitto mittapatirūpako veditabbo, anuppiyabhāṇī amitto mittapatirūpako veditabbo, apāyasahāyo amitto mittapatirūpako veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi aññadatthuharo amitto mittapatirūpako veditabbo.

Người vật gì cũng lấy, cho ít xin nhiều, vì sợ mà làm, làm vì mưu lợi cho mình.
Aññadatthuharo hoti, appena bahumicchati; bhayassa kiccaṃ karoti, sevati atthakāraṇā.

Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp người vật gì cũng lấy phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi aññadatthuharo amitto mittapatirūpako veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi vacīparamo amitto mittapatirūpako veditabbo.

Tỏ lộ thân tình việc đã qua; tỏ lộ thân tình việc chưa đến; mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ; khi có công việc, tự tỏ sự bất lực của mình.
Atītena paṭisantharati, anāgatena paṭisantharati, niratthakena saṅgaṇhāti, paccuppannesu kiccesu byasanaṃ dasseti.

Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp, người chỉ biết nói giỏi phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi vacīparamo amitto mittapatirūpako veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi anuppiyabhāṇī amitto mittapatirūpako veditabbo.

Ðồng ý các việc ác; không đồng ý các việc thiện; trước mặt tán thán; sau lưng chỉ trích.
Pāpakampissa anujānāti, kalyāṇampissa anujānāti, sammukhāssa vaṇṇaṃ bhāsati, parammukhāssa avaṇṇaṃ bhāsati.

Này Gia chủ tử, như vậy là bốn trường hợp kẻ nịnh hót phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi anuppiyabhāṇī amitto mittapatirūpako veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi apāyasahāyo amitto mittapatirūpako veditabbo.

Là bạn khi mình đam mê các loại rượu; là bạn khi mình du hành đường phố phi thời; là bạn khi mình la cà đình đám hý viện; là bạn khi mình đam mê cờ bạc.
Surāmerayamajjappamādaṭṭhānānuyoge sahāyo hoti, vikālavisikhācariyānuyoge sahāyo hoti, samajjābhicaraṇe sahāyo hoti, jūtappamādaṭṭhānānuyoge sahāyo hoti.

Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người tiêu pha xa xỉ phải được xem không phải bạn, dầu tự cho là bạn.”
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi apāyasahāyo amitto mittapatirūpako veditabbo”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Thiện Thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

“Người bạn gì cũng lấy,
“Aññadatthuharo mitto,
Người bạn chỉ nói giỏi,
yo ca mitto vacīparo;
Người nói lời nịnh hót,
Anuppiyañca yo āha,
Người tiêu pha xa xỉ.
apāyesu ca yo sakhā.
Cả bốn, không phải bạn,
Ete amitte cattāro,
Biết vậy, người trí tránh,
iti viññāya paṇḍito;
Không thân cận bạn ấy,
Ārakā parivajjeyya,
Như đường đầy sợ hãi.”
maggaṃ paṭibhayaṃ yathā”ti.

“Này Gia chủ tử, bốn loại bạn này phải được xem là bạn chân thật:
“Cattārome, gahapatiputta, mittā suhadā veditabbā.

Người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật; người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là bạn chân thật; người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là bạn chân thật; người bạn có lòng thương tưởng phải được xem là bạn chân thật.
Upakāro mitto suhado veditabbo, samānasukhadukkho mitto suhado veditabbo, atthakkhāyī mitto suhado veditabbo, anukampako mitto suhado veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là bạn chân thật
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi upakāro mitto suhado veditabbo.

Che chở cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở của cải cho bạn khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa cho bạn khi bạn sợ hãi, khi bạn có công việc sẽ giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu.
Pamattaṃ rakkhati, pamattassa sāpateyyaṃ rakkhati, bhītassa saraṇaṃ hoti, uppannesu kiccakaraṇīyesu taddiguṇaṃ bhogaṃ anuppadeti.

Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn giúp đỡ phải được xem là người bạn chân thật.
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi upakāro mitto suhado veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi samānasukhadukkho mitto suhado veditabbo.

Nói cho bạn biết điều bí mật của mình; giữ gìn kín điều bí mật của bạn; không bỏ bạn khi bạn gặp khó khăn; dám hy sinh thân mạng vì bạn.
Guyhamassa ācikkhati, guyhamassa parigūhati, āpadāsu na vijahati, jīvitaṃpissa atthāya pariccattaṃ hoti.

Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn chung thủy trong khổ cũng như trong vui phải được xem là người bạn chân thật.
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi samānasukhadukkho mitto suhado veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi atthakkhāyī mitto suhado veditabbo.

Ngăn chận bạn không làm điều ác; khuyến khích bạn làm điều thiện; cho bạn nghe điều bạn chưa nghe; cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên.
Pāpā nivāreti, kalyāṇe niveseti, assutaṃ sāveti, saggassa maggaṃ ācikkhati.

Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn khuyên điều lợi ích phải được xem là người bạn chân thật.
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi atthakkhāyī mitto suhado veditabbo.

Này Gia chủ tử, có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.
Catūhi kho, gahapatiputta, ṭhānehi anukampako mitto suhado veditabbo.

Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn; ngăn chận những ai nói xấu bạn; khuyến khích những ai tán thán bạn.
Abhavenassa na nandati, bhavenassa nandati, avaṇṇaṃ bhaṇamānaṃ nivāreti, vaṇṇaṃ bhaṇamānaṃ pasaṃsati.

Này Gia chủ tử, như vậy có bốn trường hợp, người bạn thương tưởng phải được xem là người bạn chân thật.”
Imehi kho, gahapatiputta, catūhi ṭhānehi anukampako mitto suhado veditabbo”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Bạn sẵn sàng giúp đỡ,
Bạn chung thủy khổ vui,
Bạn khuyến khích lợi ích,
Bạn có lòng thương tưởng.
“Upakāro ca yo mitto,
sukhe dukkhe ca yo sakhā;
Atthakkhāyī ca yo mitto,
yo ca mittānukampako.

Biết rõ bốn bạn này,
Người trí phục vụ họ,
Như mẹ đối con ruột.
Người trí giữ giới luật,
Sáng như lửa đồi cao.
Etepi mitte cattāro,
iti viññāya paṇḍito;
Sakkaccaṃ payirupāseyya,
mātā puttaṃva orasaṃ;
Paṇḍito sīlasampanno,
jalaṃ aggīva bhāsati.

Người tích trữ tài sản,
Như cử chỉ con ong.
Tài sản được chồng chất,
Như ụ mối đùn cao.
Bhoge saṃharamānassa,
bhamarasseva irīyato;
Bhogā sannicayaṃ yanti,
vammi­kovu­pacī­yati.

Người cư xử như vậy,
Chất chứa các tài sản,
Vừa đủ để lợi ích
Cho chính gia đình mình.
Tài sản cần chia bốn
Ðể kết hợp bạn bè.
Evaṃ bhoge samāhatvā,
alamatto kule gihī;
Catudhā vibhaje bhoge,
sa ve mittāni ganthati.

Một phần mình an hưởng,
Hai phần dành công việc,
Phần tư, phần để dành,
Phòng khó khăn hoạn nạn.
Ekena bhoge bhuñjeyya,
dvīhi kammaṃ payojaye;
Catutthañca nidhāpeyya,
āpadāsu bhavissatī”ti.

“Này Gia chủ tử, vị Thánh đệ tử hộ trì sáu phương như thế nào?
“Kathañca, gahapatiputta, ariyasāvako chaddisāpaṭicchādī hoti?

Này Gia chủ tử, sáu phương này cần được hiểu như sau:
Cha imā, gahapatiputta, disā veditabbā.

Phương Ðông cần được hiểu là cha mẹ. Phương Nam cần được hiểu là sư trưởng. Phương Tây cần được hiểu là vợ con. Phương Bắc cần được hiểu là bạn bè. Phương Dưới cần được hiểu là tôi tớ, lao công. Phương Trên cần được hiểu là Sa-môn, Bà-la-môn.
Puratthimā disā mātāpitaro veditabbā, dakkhiṇā disā ācariyā veditabbā, pacchimā disā puttadārā veditabbā, uttarā disā mittāmaccā veditabbā, heṭṭhimā disā dāsakammakarā veditabbā, uparimā disā samaṇabrāhmaṇā veditabbā.

Này Gia chủ tử, có năm trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Ðông:
Pañcahi kho, gahapatiputta, ṭhānehi puttena puratthimā disā mātāpitaro paccupaṭṭhātabbā—

‘Ðược nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ; tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm tang lễ khi cha mẹ qua đời.’
bhato ne bharissāmi, kiccaṃ nesaṃ karissāmi, kulavaṃsaṃ ṭhapessāmi, dāyajjaṃ paṭipajjāmi, atha vā pana petānaṃ kālaṅkatānaṃ dakkhiṇaṃ anuppadassāmīti.

Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương Ðông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi puttena puratthimā disā mātāpitaro paccupaṭṭhitā pañcahi ṭhānehi puttaṃ anukampanti.

Ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp, cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con.
Pāpā nivārenti, kalyāṇe nivesenti, sippaṃ sikkhāpenti, patirūpena dārena saṃyojenti, samaye dāyajjaṃ niyyādenti.

Này Gia chủ tử, như vậy là cha mẹ được con phụng dưỡng như phương Ðông theo năm cách và cha mẹ có lòng thương tưởng con theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi puttena puratthimā disā mātāpitaro paccupaṭṭhitā imehi pañcahi ṭhānehi puttaṃ anukampanti.

Như vậy phương Ðông được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Evamassa esā puratthimā disā paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Này Gia chủ tử, có năm cách, đệ tử phụng dưỡng các bậc sư trưởng như phương Nam:
Pañcahi kho, gahapatiputta, ṭhānehi antevāsinā dakkhiṇā disā ācariyā paccupaṭṭhātabbā—

Ðứng dậy để chào, hầu hạ thầy, hăng hái học tập, tự phục vụ thầy, chú tâm học hỏi nghề nghiệp.
uṭṭhānena upaṭṭhānena sussusāya pāricariyāya sakkaccaṃ sippapaṭiggahaṇena.

Này Gia chủ tử, được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách như vậy, các bậc sư trưởng có lòng thương tưởng đến các đệ tử theo năm cách:
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi antevāsinā dakkhiṇā disā ācariyā paccupaṭṭhitā pañcahi ṭhānehi antevāsiṃ anukampanti—

Huấn luyện đệ tử những gì mình đã được khéo huấn luyến; dạy cho bảo trì những gì mình được khéo bảo trì; dạy cho thuần thục các nghề nghiệp; khen đệ tử với các bạn bè quen thuộc; bảo đảm nghề nghiệp cho đệ tử về mọi mặt.
suvinītaṃ vinenti, suggahitaṃ gāhāpenti, sabbasippassutaṃ samakkhāyino bhavanti, mittāmaccesu paṭiyādenti, disāsu parittāṇaṃ karonti.

Này Gia chủ tử, như vậy là bậc sư trưởng được đệ tử phụng dưỡng như phương Nam theo năm cách và sư trưởng có lòng thương tưởng đến đệ tử theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi antevāsinā dakkhiṇā disā ācariyā paccupaṭṭhitā imehi pañcahi ṭhānehi antevāsiṃ anukampanti.

Như vậy phương Nam được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Evamassa esā dakkhiṇā disā paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như phương Tây:
Pañcahi kho, gahapatiputta, ṭhānehi sāmikena pacchimā disā bhariyā paccupaṭṭhātabbā—

Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ;
sammānanāya anavamānanāya anaticariyāya issariyavossaggena alaṅkārānuppadānena.

Này Gia chủ tử, được chồng đối xử như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách:
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi sāmikena pacchimā disā bhariyā paccupaṭṭhitā pañcahi ṭhānehi sāmikaṃ anukampati—

Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con; trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn làm mọi công việc.
susaṃvihitakammantā ca hoti, saṅgahitaparijanā ca, anaticārinī ca, sambhatañca anurakkhati, dakkhā ca hoti analasā sabbakiccesu.

Này Gia chủ, người vợ được người chồng đối xử như phương Tây theo năm cách và người vợ có lòng thương tưởng chồng theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi sāmikena pacchimā disā bhariyā paccupaṭṭhitā imehi pañcahi ṭhānehi sāmikaṃ anukampati.

Như vậy phương Tây được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Evamassa esā pacchimā disā paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với bạn bè như phương Bắc:
Pañcahi kho, gahapatiputta, ṭhānehi kulaputtena uttarā disā mittāmaccā paccupaṭṭhātabbā—

Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, không lường gạt.
dānena peyyavajjena atthacariyāya samānattatāya avisaṃvādanatāya.

Này Gia chủ tử, được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách như vậy, bạn bè có lòng thương kính vị thiện nam tử theo năm cách:
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi kulaputtena uttarā disā mittāmaccā paccupaṭṭhitā pañcahi ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti—

Che chở nếu vị thiện nam tử phóng túng; bảo trì tài sản của vị thiện nam tử nếu vị này phóng túng; trở thành chỗ nương tựa khi vị thiện nam tử gặp nguy hiểm; không tránh xa khi vị thiện nam tử gặp khó khăn; kính trọng gia đình của vị thiện nam tử.
pamattaṃ rakkhanti, pamattassa sāpateyyaṃ rakkhanti, bhītassa saraṇaṃ honti, āpadāsu na vijahanti, aparapajā cassa paṭipūjenti.

Như vậy các bạn bè được vị thiện nam tử đối xử như phương Bắc theo năm cách và bạn bè có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi kulaputtena uttarā disā mittāmaccā paccupaṭṭhitā imehi pañcahi ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti.

Như vậy phương Bắc được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Evamassa esā uttarā disā paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Này Gia chủ tử, có năm cách một vị Thánh chủ nhân đối xử với hạng nô bộc như phương Dưới:
Pañcahi kho, gahapatiputta, ṭhānehi ayyirakena heṭṭhimā disā dāsakammakarā paccupaṭṭhātabbā—

Giao việc đúng theo sức lực của họ; lo cho họ ăn uống và tiền lương; điều trị cho họ khi bệnh hoạn; chia xẻ các mỹ vị đặc biệt cho họ; thỉnh thoảng cho họ nghỉ phép.
yathābalaṃ kammantasaṃvidhānena bhattavetanānuppadānena gilānupaṭṭhānena acchariyānaṃ rasānaṃ saṃvibhāgena samaye vossaggena.

Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách như kia, có lòng thương tưởng đối với vị chủ nhân theo năm cách như sau:
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi ayyirakena heṭṭhimā disā dāsakammakarā paccupaṭṭhitā pañcahi ṭhānehi ayyirakaṃ anukampanti—

Dậy trước khi chủ dậy; đi ngủ sau chủ; tự bằng lòng với các vật đã cho; khéo làm các công việc; đem danh tiếng tốt đẹp cho chủ.
pubbuṭṭhāyino ca honti, pacchā nipātino ca, dinnādāyino ca, sukatakammakarā ca, kittivaṇṇaharā ca.

Này Gia chủ tử, các hàng nô bộc được vị Thánh chủ nhân đối xử như phương Dưới với năm cách, có lòng thương tưởng đối với Thánh chủ nhân theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi ayyirakena heṭṭhimā disā dāsakammakarā paccupaṭṭhitā imehi pañcahi ṭhānehi ayyirakaṃ anukampanti.

Như vậy phương Dưới được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.
Evamassa esā heṭṭhimā disā paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā.

Này Gia chủ tử, có năm cách vị thiện nam tử đối xử với các vị Sa-môn, Bà-la-môn như phương Trên:
Pañcahi kho, gahapatiputta, ṭhānehi kulaputtena uparimā disā samaṇabrāhmaṇā paccupaṭṭhātabbā—

Có lòng từ trong hành động về thân; có lòng từ trong hành động về khẩu; có lòng từ trong hành động về ý; mở rộng cửa để đón các vị ấy; cúng dường các vị ấy các vật dụng cần thiết.
mettena kāyakammena mettena vacīkammena mettena manokammena anāvaṭadvāratāya āmisānuppadānena.

Này Gia chủ tử, các vị Bà-la-môn, Sa-môn được vị thiện nam tử đối xử như phương Trên theo năm cách như vậy, có lòng thương tưởng vị thiện nam tử ấy theo năm cách sau đây:
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi kulaputtena uparimā disā samaṇabrāhmaṇā paccupaṭṭhitā chahi ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti—

Ngăn họ không làm điều ác; khuyến khích họ làm điều thiện; thương xót họ với tâm từ bi, dạy họ những điều chưa nghe; làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; chỉ bày con đường đưa đến cõi Trời.
pāpā nivārenti, kalyāṇe nivesenti, kalyāṇena manasā anukampanti, assutaṃ sāventi, sutaṃ pariyodāpenti, saggassa maggaṃ ācikkhanti.

Này Gia chủ tử, các vị Sa-môn, Bà-la-môn được thiện nam tử đối xử như phương Trên với năm cách, và các vị Sa-môn, Bà-la-môn có lòng thương tưởng vị thiện nam tử theo năm cách.
Imehi kho, gahapatiputta, pañcahi ṭhānehi kulaputtena uparimā disā samaṇabrāhmaṇā paccupaṭṭhitā imehi chahi ṭhānehi kulaputtaṃ anukampanti.

Như vậy phương Trên được che chở, được trở thành an ổn và thoát khỏi các sự sợ hãi.”
Evamassa esā uparimā disā paṭicchannā hoti khemā appaṭibhayā”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Thiện thệ thuyết giảng xong, bậc Ðạo Sư lại giảng thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

Cha mẹ là phương Ðông,
Sư trưởng là phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc.
“Mātāpitā disā pubbā,
ācariyā dakkhiṇā disā;
Puttadārā disā pacchā,
mittāmaccā ca uttarā.

Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ vì gia đình,
Ðảnh lễ phương hướng ấy.
Dāsakammakarā heṭṭhā,
uddhaṃ samaṇabrāhmaṇā;
Etā disā namasseyya,
alamatto kule gihī.

Kẻ trí giữ Giới, Luật,
Từ tốn và biện tài,
Khiêm nhường và nhu thuận,
Nhờ vậy được danh xưng.
Paṇḍito sīlasampanno,
saṇho ca paṭibhānavā;
Nivātavutti atthaddho,
tādiso labhate yasaṃ.

Dậy sớm không biếng nhác,
Bất động giữa hiểm nguy,
Người hiền, không phạm giới,
Nhờ vậy được danh xưng.
Uṭṭhānako analaso,
āpadāsu na vedhati;
Acchinnavutti medhāvī,
tādiso labhate yasaṃ.

Nhiếp chúng, tạo nên bạn,
Từ ái, tâm bao dung,
Dẫn đạo, khuyến hóa đạo,
Nhờ vậy được danh xưng.
Saṅgāhako mittakaro,
vadaññū vītamaccharo;
Netā vinetā anunetā,
tādiso labhate yasaṃ.

Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành bất cứ ai,
Ðồng sự trong mọi việc,
Theo trường hợp xử sự.
Chính những nhiếp sự này,
Khiến thế giới xoay quanh,
Như bánh xe quay lăn,
Vòng theo trục xe chính.
Dānañca peyyavajjañca,
atthacariyā ca yā idha;
Samānattatā ca dhammesu,
tattha tattha yathārahaṃ;
Ete kho saṅgahā loke,
rathassāṇīva yāyato.

Nhiếp sự này vắng mặt,
Không có mẹ hưởng thọ,
Hay không cha hưởng thọ,
Sự hiếu kính của con.
Ete ca saṅgahā nāssu,
na mātā puttakāraṇā;
Labhetha mānaṃ pūjaṃ vā,
pitā vā puttakāraṇā.

Do vậy bậc có trí,
Ðối với nhiếp pháp này,
Như quán sát chấp trì,
Nhờ vậy thành vĩ đại,
Ðược tán thánh, danh xưng.
Yasmā ca saṅgahā ete,
sammapekkhanti paṇḍitā;
Tasmā mahattaṃ papponti,
pāsaṃsā ca bhavanti te”ti.

Khi được nghe vậy, Singālaka, gia chủ tử bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, siṅgālako gahapatiputto bhagavantaṃ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
“abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Bạch Thế Tôn, nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo.
Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
Upāsakaṃ maṃ bhagavā dhāretu, ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.

Dứt Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt
Siṅgālasuttaṃ niṭṭhitaṃ aṭṭhamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt