Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 132

Trung Bộ 132
Majjhima Nikāya 132

Kinh A-nan nhất dạ hiền giả
Ānandabhaddekarattasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp-Cô-Ðộc).
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Ānanda (A-nan-da) tại hội trường thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Tôn giả giảng Nhất Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.
Tena kho pana samayena āyasmā ānando upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca bhāsati.

Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenupaṭṭhānasālā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, ai tại hội trường đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ai đã giảng Nhất Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết?”
“ko nu kho, bhikkhave, upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsī”ti?

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ānanda tại hội trường đã thuyết thị, khích lệ, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Tôn giả đã giảng Nhất Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.”
“Āyasmā, bhante, ānando upaṭṭhānasālāyaṃ bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsī”ti.

Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ānanda:
Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi:

“Nhưng như thế nào, này Ānanda, Ông đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp? Ông có phải đã giảng Nhất Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết?”
“yathā kathaṃ pana tvaṃ, ānanda, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsī”ti?

“Ðúng vậy, bạch Thế Tôn, con đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Con đã giảng Nhất Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết:
“Evaṃ kho ahaṃ, bhante, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesiṃ samādapesiṃ samuttejesiṃ sampahaṃsesiṃ, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsiṃ—

“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
“Atītaṃ nānvāgameyya,
nappaṭikaṅkhe anāgataṃ;
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ,
appattañca anāgataṃ.

Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Paccuppannañca yo dhammaṃ,
Tattha tattha vipassati;
Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ,
Taṃ vidvā manubrūhaye.

Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Ajjeva kiccamātappaṃ,
ko jaññā maraṇaṃ suve;
Na hi no saṅgaraṃ tena,
mahāsenena maccunā.

Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Evaṃvihāriṃ ātāpiṃ,
ahorattamatanditaṃ;
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate muni.

(Ānanda lặp lại bài Kinh MN 131)

‘Và này các Hiền giả, thế nào là truy tìm quá khứ?
‘Kathañca, āvuso, atītaṃ anvāgameti?

Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là hành của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, ‘Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy.
Evaṃrūpo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃvedano ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃsañño ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃsaṅkhāro ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃviññāṇo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti—

Như vậy, này các Hiền giả, là truy tìm quá khứ.
evaṃ kho, āvuso, atītaṃ anvāgameti.

Và này các Hiền giả, thế nào là không truy tìm quá khứ?
Kathañca, āvuso, atītaṃ nānvāgameti?

Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là tưởng của tôi … Như vậy là hành của tôi … Như vậy là thức của tôi trong quá khứ’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy.
Evaṃrūpo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃvedano ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃsañño ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃsaṅkhāro ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃviññāṇo ahosiṃ atītamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti—

Như vậy, này các Hiền giả, là không truy tìm quá khứ.
evaṃ kho, āvuso, atītaṃ nānvāgameti.

Và này các Hiền giả, thế nào ước vọng trong tương lai?
Kathañca, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati?

Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là tưởng của tôi … sẽ là hành của tôi … sẽ là thức của tôi trong tương lai’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy.
Evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti, evaṃvedano siyaṃ ...pe... evaṃsañño siyaṃ … evaṃsaṅkhāro siyaṃ … evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ samanvāneti—

Như vậy, này các Hiền giả, là ước vọng trong tương lai.
evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati.

Và này các Hiền giả, thế nào là không ước vọng trong tương lai?
Kathañca, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati?

Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là tưởng … sẽ là hành … sẽ là thức của tôi trong tương lai,’ và không truy tìm sự hân hoan trong ấy.
Evaṃrūpo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti, evaṃvedano siyaṃ ...pe... evaṃsañño siyaṃ … evaṃsaṅkhāro siyaṃ … evaṃviññāṇo siyaṃ anāgatamaddhānanti tattha nandiṃ na samanvāneti—

Như vậy, này các Hiền giả, là không ước vọng trong tương lai.
evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati.

Và này các Hiền giả, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại?
Kathañca, āvuso, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati?

Ở đây, này các Hiền giả, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân;
Idha, āvuso, assutavā puthujjano ariyānaṃ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto sappurisānaṃ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto

quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc,
rūpaṃ attato samanupassati, rūpavantaṃ vā attānaṃ, attani vā rūpaṃ, rūpasmiṃ vā attānaṃ;

hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ,
vedanaṃ …

hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã,
saññaṃ …

hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành;
saṅkhāre …

hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức.
viññāṇaṃ attato samanupassati, viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, attani vā viññāṇaṃ, viññāṇasmiṃ vā attānaṃ—

Như vậy, này các Hiền giả, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
evaṃ kho, āvuso, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati.

Và này các Hiền giả, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại?
Kathañca, āvuso, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati?

Ở đây, này các Hiền giả, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân.
Idha, āvuso, sutavā ariyasāvako ariyānaṃ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto sappurisānaṃ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto

Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc;
na rūpaṃ attato samanupassati, na rūpavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā rūpaṃ, na rūpasmiṃ vā attānaṃ;

không quán thọ…
na vedanaṃ …

không quán tưởng…
na saññaṃ …

không quán hành…
na saṅkhāre …

không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức.
na viññāṇaṃ attato samanupassati, na viññāṇavantaṃ vā attānaṃ, na attani vā viññāṇaṃ, na viññāṇasmiṃ vā attānaṃ—

Như vậy, này các Hiền giả, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
evaṃ kho, āvuso, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati.

“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
“Atītaṃ nānvāgameyya,
nappaṭikaṅkhe anāgataṃ;
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ,
appattañca anāgataṃ.

Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Paccuppannañca yo dhammaṃ,
Tattha tattha vipassati;
Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ,
Taṃ vidvā manubrūhaye.

Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Ajjeva kiccamātappaṃ,
ko jaññā maraṇaṃ suve;
Na hi no saṅgaraṃ tena,
mahāsenena maccunā.

Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Evaṃvihāriṃ ātāpiṃ,
ahorattamatanditaṃ;
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate muni.

Như vậy, bạch Thế Tôn, con đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo. Con đã giảng Nhứt Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.”
Evaṃ kho ahaṃ, bhante, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesiṃ samādapesiṃ samuttejesiṃ sampahaṃsesiṃ, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsin”ti.

“Lành thay, lành thay, này Ānanda!
“Sādhu sādhu, ānanda.

Lành thay, này Ānanda! Ông đã thuyết thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các Tỷ-kheo với bài thuyết pháp. Ông đã giảng Nhất Dạ Hiền Giả, tổng thuyết và biệt thuyết.”
Sādhu kho tvaṃ, ānanda, bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsi:

‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.

Và này Ānanda, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là hành của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, ‘Như vậy là thức của tôi trong quá khứ’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là truy tìm quá khứ.
Kathañca, ānanda, atītaṃ anvāgameti ...pe... evaṃ kho, ānanda, atītaṃ anvāgameti.

Và này Ānanda, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy là tưởng của tôi … Như vậy là hành của tôi … Như vậy là thức của tôi trong quá khứ’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là không truy tìm quá khứ.
Kathañca, ānanda, atītaṃ nānvāgameti ...pe... evaṃ kho, ānanda, atītaṃ nānvāgameti.

Và này Ānanda, thế nào ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là tưởng của tôi … sẽ là hành của tôi … sẽ là thức của tôi trong tương lai’, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là ước vọng trong tương lai.
Kathañca, ānanda, anāgataṃ paṭikaṅkhati ...pe... evaṃ kho, ānanda, anāgataṃ paṭikaṅkhati.

Và này Ānanda, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: ‘Như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai’, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; ‘Như vậy sẽ là tưởng… sẽ là hành… sẽ là thức của tôi trong tương lai, ‘và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này Ānanda, là không ước vọng trong tương lai.
Kathañca, ānanda, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati ...pe... evaṃ kho, ānanda, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati.

Và này Ānanda, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ānanda, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này Ānanda, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Kathañca, ānanda, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati ...pe... evaṃ kho, ānanda, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati.

Và này Ānanda, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này Ānanda, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ… không quán tưởng… không quán hành… không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này Ānanda, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Kathañca, ānanda, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati ...pe... evaṃ kho, ānanda, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati.

‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṃ abhinandīti.

Ānandabhaddekarattasuttaṃ niṭṭhitaṃ dutiyaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt