Trung Bộ 133
Majjhima Nikāya 133
Kinh Ðại Ca-chiên-diên nhất dạ hiền giả
Mahākaccānabhaddekarattasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Tinh xá Suối Nước Nóng.
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati tapodārāme.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi, thức dậy vừa lúc bình minh đi đến Suối Nước Nóng để tắm rửa tay chân.
Atha kho āyasmā samiddhi rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya yena tapodo tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.
Tắm rửa tay chân ở Suối Nước Nóng xong, sau khi lên khỏi nước, vị ấy đứng mặc một y để tay chân cho khô.
Tapode gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno.
Rồi sau khi đêm vừa mãn, một Thiên thần, chói sáng với dung sắc thù thắng cả vùng Suối Nước Nóng, đi đến Tôn giả Samiddhi, sau khi đến, liền đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên Thần ấy thưa Tôn giả Samiddhi:
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ tapodaṃ obhāsetvā yenāyasmā samiddhi tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā āyasmantaṃ samiddhiṃ etadavoca:
“Này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả không?”
“dhāresi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcā”ti?
“Này Hiền giả, tôi không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả.
“Na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Nhưng này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả không?”
Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcā”ti?
“Này Tỷ-kheo, tôi cũng không có thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả. Nhưng này Tỷ-kheo, Ngài có thọ trì bài kệ về Nhất Dạ Hiền Giả không?”
“Ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca. Dhāresi pana tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattiyo gāthā”ti?
“Này Hiền giả, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhất Dạ Hiền Giả. Nhưng này Hiền giả, Hiền giả có thọ trì bài kệ về Nhất Dạ Hiền Giả không?”
“Na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti. Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattiyo gāthā”ti?
“Này Tỷ-kheo, tôi không có thọ trì bài kệ về Nhất Dạ Hiền Giả.
“Ahampi kho, bhikkhu na dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti.
Này Tỷ-kheo, hãy học tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả.
Uggaṇhāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca;
Này Tỷ-kheo, hãy học cho thuần thục tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả.
pariyāpuṇāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca;
Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả.
dhārehi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Vì rằng, này Tỷ-kheo, tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả là liên hệ đến mục đích và căn bản của Phạm hạnh.”
Atthasaṃhito, bhikkhu, bhaddekarattassa uddeso ca vibhaṅgo ca ādibrahmacariyako”ti.
Thiên thần ấy nói như vậy. Sau khi nói vậy, vị ấy biến mất ở đấy.
Idamavoca sā devatā. Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.
Rồi Tôn giả Samiddhi sau khi đêm ấy đã mãn, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi bạch Thế Tôn :
Atha kho āyasmā samiddhi tassā rattiyā accayena yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā samiddhi bhagavantaṃ etadavoca:
Ở đây, bạch Thế Tôn, con thức dậy vừa lúc bình mình đi đến Suối Nước Nóng để tắm rửa tay chân.
“Idhāhaṃ, bhante, rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya yena tapodo tenupasaṅkamiṃ gattāni parisiñcituṃ.
Tắm rửa tay chân ở Suối Nước Nóng xong, sau khi lên khỏi nước, con đứng mặc một y để tay chân cho khô.
Tapode gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsiṃ gattāni pubbāpayamāno.
Rồi bạch Thế Tôn, sau khi đêm vừa mãn, một Thiên thần, chói sáng với dung sắc thù thắng cả vùng Suối Nước Nóng, … và là căn bản Phạm hạnh”.
Atha kho bhante, aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ tapodaṃ obhāsetvā yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā maṃ etadavoca: ‘dhāresi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcā’ti?
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhante, taṃ devataṃ etadavocaṃ:
‘na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañcā’ti?
‘Ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Dhāresi pana tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattiyo gāthā’ti?
‘Na kho ahaṃ, āvuso, dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti.
Tvaṃ panāvuso, dhāresi bhaddekarattiyo gāthā’ti?
‘Ahampi kho, bhikkhu, na dhāremi bhaddekarattiyo gāthāti.
Uggaṇhāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca;
pariyāpuṇāhi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca;
dhārehi tvaṃ, bhikkhu, bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca.
Atthasaṃhito, bhikkhu, bhaddekarattassa uddeso ca vibhaṅgo ca ādibrahmacariyako’ti.
Thiên thần ấy nói như vậy. Sau khi nói như vậy, vị ấy biến mất ở đấy.
Idamavoca, bhante, sā devatā. Idaṃ vatvā tatthevantaradhāyi.
Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết giảng cho tổng thuyết và biệt thuyết về Nhất Dạ Hiền Giả!”
Sādhu me, bhante, bhagavā bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca desetū”ti.
“Vậy này Tỷ-kheo, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.”
“Tena hi, bhikkhu, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.” Tôn giả Samiddhi vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau :
“Evaṃ, bhante”ti kho āyasmā samiddhi bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
“Atītaṃ nānvāgameyya,
nappaṭikaṅkhe anāgataṃ;
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ,
appattañca anāgataṃ.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Paccuppannañca yo dhammaṃ,
Tattha tattha vipassati;
Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ,
Taṃ vidvā manubrūhaye.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Ajjeva kiccamātappaṃ,
ko jaññā maraṇaṃ suve;
Na hi no saṅgaraṃ tena,
mahāsenena maccunā.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Evaṃvihāriṃ ātāpiṃ,
ahorattamatanditaṃ;
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate muni.
Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá,
Idamavoca bhagavā; idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, liền suy nghĩ:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi:
“Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi thuyết giảng phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng ta, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá:
“idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
“Atītaṃ nānvāgameyya,
nappaṭikaṅkhe anāgataṃ;
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ,
appattañca anāgataṃ.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Paccuppannañca yo dhammaṃ,
Tattha tattha vipassati;
Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ,
Taṃ vidvā manubrūhaye.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Ajjeva kiccamātappaṃ,
ko jaññā maraṇaṃ suve;
Na hi no saṅgaraṃ tena,
mahāsenena maccunā.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Evaṃvihāriṃ ātāpiṃ,
ahorattamatanditaṃ;
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate muni.
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi”.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā”ti?
Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi:
“Tôn giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) này đã được Thế Tôn tán thán và được các đồng Phạm hạnh có trí kính trọng;
“ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ;
Tôn giả Mahākaccāna có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi.
pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Vậy chúng ta hãy đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này”.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā”ti.
Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến nói lên với Tôn giả Mahākaccāna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy thưa với Tôn giả Mahākaccāna:
Atha kho te bhikkhū yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavocuṃ:
“Thưa Hiền giả Kaccana, Thế Tôn sau khi đọc tổng thuyết này, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tinh xá :
“idaṃ kho no, āvuso kaccāna, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi. Rồi này Hiền giả Kaccana, chúng tôi suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso kaccāna, amhākaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi—idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.
Tôn giả Mahākaccāna này đã được Thế Tôn tán thán …’… chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này’.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyāti?
Tesaṃ no, āvuso kaccāna, amhākaṃ etadahosi:
‘ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.
Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yannūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.
Tôn giả Mahākaccāna hãy giải thích cho”.
Vibhajatāyasmā mahākaccāno”ti.
“Này chư Hiền, ví như một người cần thiết lõi cây, tìm cầu lõi cây, đang đi tìm cầu lõi cây, đứng trước một cây lớn có lõi cây. Người ấy bỏ rễ, bỏ thân cây, nghĩ rằng lõi cây cần phải tìm trong các nhánh cây, lá cây.
“Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato atikkammeva mūlaṃ atikkamma khandhaṃ sākhāpalāse sāraṃ pariyesitabbaṃ maññeyya;
Cũng vậy, là việc làm của chư Tôn giả … Chư Tôn giả đứng trước mặt Thế Tôn, chư Tôn giả lại vượt qua Thế Tôn, và nghĩ rằng cần phải hỏi tôi về ý nghĩa này.
evaṃsampadamidaṃ āyasmantānaṃ satthari sammukhībhūte taṃ bhagavantaṃ atisitvā amhe etamatthaṃ paṭipucchitabbaṃ maññatha.
Nhưng này chư Hiền, Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai.
So hāvuso, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Nay đã đến thời, chư Hiền hãy đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này. Thế Tôn giải thích cho chư Hiền như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì.”
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, yathā vo bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.
“Thưa Hiền giả Kaccana, chắc chắn Thế Tôn biết những gì cần biết, thấy những gì cần thấy, bậc có mắt, bậc Trí giả, bậc Pháp giả, bậc Phạm thiên, bậc Thuyết giả, bậc Tuyên thuyết giả, bậc dẫn đến mục đích, bậc đem cho bất tử, bậc Pháp chủ, bậc Như Lai.
“Addhāvuso kaccāna, bhagavā jānaṃ jānāti, passaṃ passati, cakkhubhūto ñāṇabhūto dhammabhūto brahmabhūto vattā pavattā atthassa ninnetā amatassa dātā dhammassāmī tathāgato.
Nay đã đến thời chúng tôi đến hỏi Thế Tôn về ý nghĩa này.
So ceva panetassa kālo ahosi yaṃ bhagavantaṃyeva etamatthaṃ paṭipuccheyyāma;
Thế Tôn giải thích cho chúng tôi như thế nào, chúng tôi sẽ như vậy thọ trì.
yathā no bhagavā byākareyya tathā naṃ dhāreyyāma.
Nhưng Tôn giả Mahākaccāna được Thế Tôn tán thán, được các vị đồng Phạm hạnh kính trọng.
Api cāyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ;
Tôn giả Mahākaccāna có thể giải thích một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi.
pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.
Mong Tôn giả Mahākaccāna giải thích cho nếu Tôn giả không cảm thấy phiền phức.”
Vibhajatāyasmā mahākaccāno agaruṃ karitvā”ti.
“Vậy chư hiền, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, tôi sẽ nói.”
“Tena hāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahākaccāna. Tôn giả Mahākaccāna nói như sau :
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa paccassosuṃ. Āyasmā mahākaccāno etadavoca:
“Này Hiền giả, phần tổng thuyết Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá:
“Yaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.
Về phần tổng thuyết này chỉ được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi, này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau :
Imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi—
Này chư Hiền, thế nào là truy tìm quá khứ?
Kathañca, āvuso, atītaṃ anvāgameti?
Mắt của tôi trong thời quá khứ là như vậy, các sắc pháp là như vậy, và thức ở đây bị dục và ái trói chặt. Vì thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
Iti me cakkhu ahosi atītamaddhānaṃ iti rūpāti—tattha chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati, tadabhinandanto atītaṃ anvāgameti.
Tai của tôi trong quá khứ là như vậy, các tiếng là như vậy …
Iti me sotaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti saddāti ...pe...
Mũi của tôi trong quá khứ là như vậy, các hương là như vậy …
iti me ghānaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti gandhāti …
Lưỡi của tôi trong quá khứ là như vậy, các vị là như vậy …
iti me jivhā ahosi atītamaddhānaṃ iti rasāti …
Thân của tôi trong quá khứ là như vậy, các xúc là như vậy …
iti me kāyo ahosi atītamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti …
Ý của tôi trong quá khứ là như vậy, các pháp là như vậy, và thức ở đây, bị dục và ái trói chặt. Vì rằng thức bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Vì hân hoan trong ấy, vị ấy truy tìm quá khứ.
iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ iti dhammāti—tattha chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati, tadabhinandanto atītaṃ anvāgameti—
Như vậy, này chư Hiền, là truy tìm quá khứ.
evaṃ kho, āvuso, atītaṃ anvāgameti.
Và này chư Hiền, thế nào là không truy tìm quá khứ?
Kathañca, āvuso, atītaṃ nānvāgameti?
Mắt của tôi trong thời quá khứ là như vậy, các sắc pháp là như vậy, và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
Iti me cakkhu ahosi atītamaddhānaṃ iti rūpāti—tattha na chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa na tadabhinandati, na tadabhinandanto atītaṃ nānvāgameti.
Tai của tôi trong quá khứ là như vậy, các tiếng là như vậy,…
Iti me sotaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti saddāti ...pe...
Mũi của tôi trong quá khứ là như vậy, các hương là như vậy,…
iti me ghānaṃ ahosi atītamaddhānaṃ iti gandhāti …
Lưỡi của tôi trong quá khứ là như vậy, các vị là như vậy,…
iti me jivhā ahosi atītamaddhānaṃ iti rasāti …
Thân của tôi trong quá khứ là như vậy, các xúc là như vậy, …
iti me kāyo ahosi atītamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti …
Ý của tôi trong quá khứ là như vậy, các pháp là như vậy, và thức ở đây không bị dục và ái trói chặt. Vì thức không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Vì không hân hoan trong ấy, vị ấy không truy tìm quá khứ.
iti me mano ahosi atītamaddhānaṃ iti dhammāti—tattha na chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa, na tadabhinandati, na tadabhinandanto atītaṃ nānvāgameti—
Như vậy, này chư Hiền, là không truy tìm quá khứ.
evaṃ kho, āvuso, atītaṃ nānvāgameti.
Và này chư Hiền, thế nào là ước vọng tương lai?
Kathañca, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati?
Mắt của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các sắc pháp là như vậy, và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
Iti me cakkhu siyā anāgatamaddhānaṃ iti rūpāti—appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati, cetaso paṇidhānapaccayā tadabhinandati, tadabhinandanto anāgataṃ paṭikaṅkhati.
Tai của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các tiếng là như vậy,…
Iti me sotaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti saddāti ...pe...
Mũi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các hương là như vậy,…
iti me ghānaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti gandhāti …
Lưỡi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các vị là như vậy,…
iti me jivhā siyā anāgatamaddhānaṃ iti rasāti …
Thân của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các xúc là như vậy,…
iti me kāyo siyā anāgatamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti …
Ý của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các pháp là như vậy, và vị ấy hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Vì duyên hướng tâm như vậy, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy ước vọng tương lai.
iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ iti dhammāti—appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ paṇidahati, cetaso paṇidhānapaccayā tadabhinandati, tadabhinandanto anāgataṃ paṭikaṅkhati—
Như vậy, này chư Hiền, là ước vọng tương lai.
evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ paṭikaṅkhati.
Và này chư Hiền, thế nào là không ước vọng tương lai?
Kathañca, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati?
Mắt của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các sắc pháp là như vậy, vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
Iti me cakkhu siyā anāgatamaddhānaṃ iti rūpāti—appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ nappaṇidahati, cetaso appaṇidhānapaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto anāgataṃ nappaṭikaṅkhati.
Tai của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các tiếng là như vậy,…
Iti me sotaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti saddāti ...pe...
Mũi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các hương là như vậy, …
iti me ghānaṃ siyā anāgatamaddhānaṃ iti gandhāti …
Lưỡi của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các vị là như vậy,…
iti me jivhā siyā anāgatamaddhānaṃ iti rasāti …
Thân của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các xúc là như vậy, …
iti me kāyo siyā anāgatamaddhānaṃ iti phoṭṭhabbāti …
Ý của tôi trong tương lai sẽ là như vậy, các pháp là như vậy, vị ấy không hướng tâm lấy cho được cái gì chưa được. Do duyên không hướng tâm, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không có ước vọng tương lai.
iti me mano siyā anāgatamaddhānaṃ iti dhammāti—appaṭiladdhassa paṭilābhāya cittaṃ nappaṇidahati, cetaso appaṇidhānapaccayā na tadabhinandati, na tadabhinandanto anāgataṃ nappaṭikaṅkhati—
Như vậy, này chư Hiền, là không ước vọng tương lai.
evaṃ kho, āvuso, anāgataṃ nappaṭikaṅkhati.
Và này chư Hiền, thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại?
Kathañca, āvuso, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati?
Này chư Hiền, nếu mắt và các sắc pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Yañcāvuso, cakkhu ye ca rūpā—ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiñce paccuppanne chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati, tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu saṃhīrati.
Này chư Hiền, nếu tai và các tiếng …
Yañcāvuso, sotaṃ ye ca saddā ...pe...
nếu mũi và các hương …
yañcāvuso, ghānaṃ ye ca gandhā …
nếu lưỡi và các vị …
yā cāvuso, jivhā ye ca rasā …
nếu thân và các xúc …
yo cāvuso, kāyo ye ca phoṭṭhabbā …
Này chư Hiền nếu ý và các pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy bị dục và ái trói chặt, vị ấy hân hoan trong ấy. Do hân hoan trong ấy, vị ấy bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
yo cāvuso, mano ye ca dhammā—ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiñce paccuppanne chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa tadabhinandati, tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu saṃhīrati—
Như vậy, này chư Hiền, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
evaṃ kho, āvuso, paccuppannesu dhammesu saṃhīrati.
Và này chư Hiền, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại?
Kathañca, āvuso, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati?
Này chư Hiền, nếu mắt và các sắc pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Yañcāvuso, cakkhu ye ca rūpā—ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiñce paccuppanne na chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa na tadabhinandati, na tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati.
Này chư Hiền, nếu tai và các tiếng …
Yañcāvuso, sotaṃ ye ca saddā ...pe...
Này chư Hiền, nếu mũi và các hương …
yañcāvuso, ghānaṃ ye ca gandhā …
Này chư Hiền, nếu lưỡi và các vị …
yā cāvuso, jivhā ye ca rasā …
Này chư Hiền, nếu thân và các xúc …
yo cāvuso, kāyo ye ca phoṭṭhabbā …
Này chư Hiền, nếu ý và các pháp, cả hai đều có mặt trong hiện tại này, và thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt cũng trong hiện tại này. Vì thức của vị ấy không bị dục và ái trói chặt, vị ấy không hân hoan trong ấy. Do không hân hoan trong ấy, vị ấy không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
yo cāvuso, mano ye ca dhammā—ubhayametaṃ paccuppannaṃ. Tasmiñce paccuppanne na chandarāgappaṭibaddhaṃ hoti viññāṇaṃ, na chandarāgappaṭibaddhattā viññāṇassa na tadabhinandati, na tadabhinandanto paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati—
Như vậy, này chư Hiền là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
evaṃ kho, āvuso, paccuppannesu dhammesu na saṃhīrati.
Này chư Hiền, phần tổng thuyết Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy và đã đi vào trong tinh xá :
Yaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.
Phần tổng thuyết này, này chư Hiền, được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi; này chư Hiền, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.
Imassa kho ahaṃ, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.
Và nếu chư Tôn giả muốn, hãy đi đến Thế Tôn và hỏi ý nghĩa này.
Ākaṅkhamānā ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā etamatthaṃ paṭipuccheyyātha,
Thế Tôn giải thích các Tôn giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.”
yathā vo bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.
Rồi các Tỷ-kheo ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Mahākaccāna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn :
Atha kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sau khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi vào tinh xá :
“yaṃ kho no, bhante, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
‘Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất dạ hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.’
‘Atītaṃ nānvāgameyya,
...pe...
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate munī’ti.
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau : ‘Thế Tôn sau khi đọc phần tổng thuyết một cách vắn tắt cho chúng con, không giải nghĩa một cách rộng rãi, và đã đi vào tinh xá:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ, acirapakkantassa bhagavato, etadahosi: ‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
“Atītaṃ nānvāgameyya,
nappaṭikaṅkhe anāgataṃ;
Yadatītaṃ pahīnaṃ taṃ,
appattañca anāgataṃ.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập.
Paccuppannañca yo dhammaṃ,
Tattha tattha vipassati;
Asaṃhīraṃ asaṅkuppaṃ,
Taṃ vidvā manubrūhaye.
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai,
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.
Ajjeva kiccamātappaṃ,
ko jaññā maraṇaṃ suve;
Na hi no saṅgaraṃ tena,
mahāsenena maccunā.
Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.
Evaṃvihāriṃ ātāpiṃ,
ahorattamatanditaṃ;
Taṃ ve bhaddekarattoti,
santo ācikkhate muni.
Nay không biết ai có thể giải nghĩa một cách rộng rãi tổng thuyết này, phần này chỉ được Thế Tôn đọc lên một cách vắn tắt, không được giải nghĩa một cách rộng rãi’.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi:
‘Tôn giả Mahākaccāna (Ðại Ca-chiên-diên) này … chúng ta hãy hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này.’
‘ayaṃ kho āyasmā mahākaccāno satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā mahākaccāno imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yannūna mayaṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.
Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến chúng con hỏi Tôn giả Mahākaccāna về ý nghĩa này. Ý nghĩa của những chữ ấy đã được Tôn giả Mahākaccāna giải thích cho chúng con với những phương pháp này, các những câu này, với những chữ này”.
Atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etamatthaṃ paṭipucchimha. Tesaṃ no, bhante, āyasmatā mahākaccānena imehi ākārehi imehi padehi imehi byañjanehi attho vibhatto”ti.
“Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc Hiền trí.
“Paṇḍito, bhikkhave, mahākaccāno; mahāpañño, bhikkhave mahākaccāno.
Này các Tỷ-kheo, Mahākaccāna là bậc Ðại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu các Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng giải thích cho các Ông như vậy, như Mahākaccāna đã giải thích.
Mañcepi tumhe, bhikkhave, etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ mahākaccānena byākataṃ.
Thật sự ý nghĩa ấy là vậy, và các Ông hãy thọ trì như vậy.”
Eso cevetassa attho. Evañca naṃ dhārethā”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti.
Mahākaccānabhaddekarattasuttaṃ niṭṭhitaṃ tatiyaṃ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt