Tương Ưng Bộ 1.76
Saṃyutta Nikāya 1.76
8. Phẩm Ðoạn
8. Chetvāvagga
Không Già
Najīratisutta
“Ai già, ai không già?
Thế nào gọi phi đạo?
Vật gì chướng ngại pháp?
Vật gì đêm ngày diệt?
Vật gì uế Phạm hạnh?
Vật gì tắm không nước?
“Kiṃ jīrati kiṃ na jīrati,
kiṃsu uppathoti vuccati;
Kiṃsu dhammānaṃ paripantho,
kiṃsu rattindivakkhayo;
Kiṃ malaṃ brahmacariyassa,
kiṃ sinānamanodakaṃ.
Ðời bao nhiêu lỗ trống,
Trên ấy, tâm không trú?
Con đến hỏi Thế Tôn,
Mong biết câu trả lời!”
Kati lokasmiṃ chiddāni,
yattha vittaṃ na tiṭṭhati;
Bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma,
kathaṃ jānemu taṃ mayan”ti.
(Thế Tôn):
“Sắc hữu tình bị già,
Danh tánh lại không già,
Tham dục gọi phi đạo,
“Rūpaṃ jīrati maccānaṃ,
nāmagottaṃ na jīrati;
Rāgo uppathoti vuccati.
Tham ái, chướng ngại pháp.
Tuổi tác đêm, ngày diệt,
Nữ nhân uế Phạm hạnh,
Ðắm trước trong uế này,
Là toàn thể chúng sanh.
Khổ hạnh và Phạm hạnh,
Là tắm không cần nước,
Vayo rattindivakkhayo;
Itthī malaṃ brahmacariyassa,
Etthāyaṃ sajjate pajā;
Tapo ca brahmacariyañca,
Taṃ sinānamanodakaṃ.
Sáu lỗ trống ở đời,
Trên ấy, tâm không trú,
Biếng nhác và phóng dật,
Uể oải, không tự chế,
Thụy miên và hôn trầm,
Cả sáu lỗ trống này,
Cần ly khai tất cả.”
Cha lokasmiṃ chiddāni,
yattha vittaṃ na tiṭṭhati;
Ālasyañca pamādo ca,
anuṭṭhānaṃ asaṃyamo;
Niddā tandī ca te chidde,
sabbaso taṃ vivajjaye”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt