Tương Ưng Bộ 10.12
Saṃyutta Nikāya 10.12
1. Phẩm Indaka
1. Indakavagga
Āḷavaka
Āḷavakasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời, Thế Tôn trú ở Āḷavī, tại trú xứ của Dạ-xoa Āḷavaka.
ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane.
Rồi Dạ-xoa Āḷavaka nói với Thế Tôn:
Atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:
“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.
“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi ra.
“Sādhāvuso”ti bhagavā nikkhami.
“Này Sa-môn, hãy đi vào!”
“Pavisa, samaṇā”ti.
“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi vào.
“Sādhāvuso”ti bhagavā pāvisi.
Lần thứ hai, Dạ-xoa Āḷavaka nói với Thế Tôn:
Dutiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca:
“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.
“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi ra.
“Sādhāvuso”ti bhagavā nikkhami.
“Này Sa-môn, hãy đi vào!”
“Pavisa, samaṇā”ti.
“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi vào.
“Sādhāvuso”ti bhagavā pāvisi.
Lần thứ ba, Dạ-xoa Āḷavīka nói với Thế Tôn:
Tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca:
“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.
“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi ra.
“Sādhāvuso”ti bhagavā nikkhami.
“Này Sa-môn, hãy đi vào!”
“Pavisa, samaṇā”ti.
“Lành thay, Hiền giả”. Thế Tôn nói và đi vào.
“Sādhāvuso”ti bhagavā pāvisi.
Lần thứ tư, Dạ-xoa Āḷavīka nói với Thế Tôn:
Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca:
“Này Sa-môn, hãy đi ra!”
“nikkhama, samaṇā”ti.
“Này Hiền giả, Ta không đi ra. Hãy làm gì Ông nghĩ là phải làm”.
“Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, nikkhamissāmi. Yaṃ te karaṇīyaṃ taṃ karohī”ti.
“Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ông một câu hỏi.
“Pañhaṃ taṃ, samaṇa, pucchissāmi.
Nếu Ông không trả lời ta được, ta sẽ làm tâm Ông điên loạn, hay ta làm Ông bể tim, hay nắm lấy chân, ta sẽ quăng Ông qua bờ bên kia sông Hằng.”
Sace me na byākarissasi, cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmī”ti.
“Này Hiền giả, Ta không thấy một ai, ở thế giới chư Thiên, Ma giới hay Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người có thể làm tâm Ta điên loạn, hay làm bể tim Ta hay nắm lấy chân, quăng Ta qua bờ bên kia sông Hằng.
“Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya, yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya.
Tuy vậy, này Hiền giả, hãy hỏi đi như Ông muốn.”
Api ca tvaṃ, āvuso, puccha yadā kaṅkhasī”ti (...).
(Dạ-xoa):
“Cái gì đối người đời,
Là tài sản tối thượng?
Cái gì khéo hành trì,
Ðem lại chơn an lạc?
Cái gì giữa các vị,
Là vị ngọt tối thượng?
Phải sống như thế nào,
Ðược gọi sống tối thượng?”
“Kiṃsūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ,
Kiṃsu suciṇṇaṃ sukhamāvahāti;
Kiṃsu have sādutaraṃ rasānaṃ,
Kathaṃjīviṃ jīvitamāhu seṭṭhan”ti.
(Thế Tôn):
“Lòng tin đối người đời,
Là tài sản tối thượng.
Chánh pháp khéo hành trì,
Ðem lại chơn an lạc.
Chân lý giữa các vị,
Là vị ngọt tối thượng.
Phải sống với trí tuệ,
Ðược gọi sống tối thượng”.
“Saddhīdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ,
Dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti;
Saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ,
Paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭhan”ti.
(Dạ-xoa):
“Làm sao vượt bộc lưu?
Làm sao vượt biển lớn?
Làm sao thoát khổ não?
Làm sao được thanh tịnh?”
“Kathaṃsu tarati oghaṃ,
kathaṃsu tarati aṇṇavaṃ;
Kathaṃsu dukkhamacceti,
kathaṃsu parisujjhatī”ti.
(Thế Tôn):
“Với tín, vượt bộc lưu.
Không phóng dật, vượt biển.
Tinh tấn, thoát khổ não.
Với trí, được thanh tịnh”.
“Saddhāya tarati oghaṃ,
appamādena aṇṇavaṃ;
Vīriyena dukkhamacceti,
paññāya parisujjhatī”ti.
(Dạ-xoa):
“Làm sao được trí tuệ?
Làm sao được tài sản?
Làm sao đạt danh xưng?
Làm sao kết bạn hữu?
Ðời này qua đời khác,
Làm sao không sầu khổ?”
“Kathaṃsu labhate paññaṃ,
kathaṃsu vindate dhanaṃ;
Kathaṃsu kittiṃ pappoti,
kathaṃ mittāni ganthati;
Asmā lokā paraṃ lokaṃ,
kathaṃ pecca na socatī”ti.
(Thế Tôn):
“Ai tin tưởng Chánh pháp,
Của bậc A-la-hán,
Chứng đạt được Niết-bàn,
Khéo nghe, đạt trí tuệ,
Bậc trí tự mình biết.
“Saddahāno arahataṃ,
dhammaṃ nibbānapattiyā;
Sussūsaṃ labhate paññaṃ,
appamatto vicakkhaṇo.
Làm gì khéo thích hợp,
Gánh vác các trách nhiệm,
Tinh tấn tạo của cải,
Chân thật đạt danh xưng,
Bố thí kết bạn hữu,
Đời này qua đời khác,
Như vậy không sầu khổ.
Patirūpakārī dhuravā,
uṭṭhātā vindate dhanaṃ;
Saccena kittiṃ pappoti,
dadaṃ mittāni ganthati;
Asmā lokā paraṃ lokaṃ,
evaṃ pecca na socati.
Tín nam gia chủ nào,
Tìm cầu bốn pháp này,
Chân thật và chế ngự,
Kiên trì và xả thí,
Vị ấy sau khi chết,
Không còn phải sầu khổ.
Yassete caturo dhammā,
saddhassa gharamesino;
Saccaṃ dhammo dhiti cāgo,
sa ve pecca na socati.
Ta muốn Ông đến hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có những pháp nào khác,
Tốt hơn bốn pháp này:
Chân thật và chế ngự,
Xả thí và kham nhẫn”.
Iṅgha aññepi pucchassu,
puthū samaṇabrāhmaṇe;
Yadi saccā dhammā cāgā,
khantyā bhiyyodha vijjatī”ti.
(Dạ-xoa):
“Làm sao nay ta hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Khi nay ta được biết,
Nguyên nhân của đời sau.
“Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ,
puthū samaṇabrāhmaṇe;
Yohaṃ ajja pajānāmi,
yo attho samparāyiko.
Phật đến Āḷavi,
Thật lợi ích cho ta.
Nay ta được biết rõ,
Cho gì được quả lớn.
Atthāya vata me buddho,
vāsāyāḷavimāgamā;
Yohaṃ ajja pajānāmi,
yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
Nên ta sẽ bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ Phật Chánh Giác,
Cùng đảnh lễ Chánh pháp,
Các vị chứng Pháp tánh.”
So ahaṃ vicarissāmi,
Gāmā gāmaṃ purā puraṃ;
Namassamāno sambuddhaṃ,
Dhammassa ca sudhammatan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt