Tương Ưng Bộ 12.18
Saṃyutta Nikāya 12.18
2. Phẩm Đồ Ăn
2. Āhāravagga
Timbaruka
Timbarukasutta
Trú ở Sāvatthi ...
Sāvatthiyaṃ viharati.
Rồi du sĩ Timbaruka đi đến Thế Tôn; Sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm;
Atha kho timbaruko paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Timbaruka bạch Thế Tôn:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho timbaruko paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:
—Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ tự mình làm ra?
“Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṅkataṃ sukhadukkhanti?
Thế Tôn đáp: "Không phải vậy, này Timbaruka."
Mā hevaṃ, timbarukāti bhagavā avoca.
—Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc khổ do người khác làm ra?
Kiṃ pana, bho gotama, paraṅkataṃ sukhadukkhanti?
Thế Tôn đáp: "Không phải vậy, này Timbaruka."
Mā hevaṃ, timbarukāti bhagavā avoca.
—Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải lạc khổ do tự mình làm ra và do người khác làm ra?
Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṅkatañca paraṅkatañca sukhadukkhanti?
Thế Tôn đáp: "Không phải vậy, này Timbaruka."
Mā hevaṃ, timbarukāti bhagavā avoca.
—Thưa Tôn giả Gotama, lạc khổ không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra; vậy có phải lạc khổ do tự nhiên sanh?
Kiṃ pana, bho gotama, asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhanti?
Thế Tôn đáp: "Không phải vậy, này Timbaruka."
Mā hevaṃ, timbarukāti bhagavā avoca.
—Thưa Tôn giả Gotama, vậy có phải không có lạc khổ?
Kiṃ nu kho, bho gotama, natthi sukhadukkhanti?
—Này Timbaruka, không phải không có lạc khổ.
Na kho, timbaruka, natthi sukhadukkhaṃ;
Này Timbaruka, có lạc khổ.
atthi kho, timbaruka, sukhadukkhanti.
—Nếu vậy, Tôn giả Gotama không biết, không thấy lạc khổ.
Tena hi bhavaṃ gotamo sukhadukkhaṃ na jānāti, na passatīti?
—Này Timbaruka, không phải Ta không biết, không thấy lạc khổ.
Na khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkhaṃ na jānāmi, na passāmi.
Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ.
Jānāmi khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkhaṃ;
Này Timbaruka, Ta thấy lạc khổ.
passāmi khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkhan”ti.
—Ðược hỏi: “Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do tự mình làm ra?”, Ngài trả lời: “Không phải vậy, này Timbaruka”.
Ðược hỏi: ” Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do người khác làm ra?”, Ngài trả lời: “Không phải vậy, này Timbaruka”.
Ðược hỏi: “Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ do tự mình làm ra và do người khác làm ra?”, Ngài đáp: “Không phải vậy, này Timbaruka”.
Ðược hỏi: “Thưa Tôn giả Gotama, không phải do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, có phải lạc khổ do tự nhiên sanh?”, Ngài đáp: “Không phải vậy, này Timbaruka”.
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṅkataṃ sukhadukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, timbarukā’ti vadesi.
‘Kiṃ pana, bho gotama, paraṅkataṃ sukhadukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, timbarukā’ti vadesi.
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṅkatañca paraṅkatañca sukhadukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, timbarukā’ti vadesi.
‘Kiṃ pana, bho gotama, asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, timbarukā’ti vadesi.
Ðược hỏi: “Thưa Tôn giả Gotama, có phải lạc khổ không có?”, Ngài đáp: “Này Timbaruka, không phải không có lạc khổ, này Timbaruka, có lạc khổ”.
Ðược hỏi: “Như vậy Tôn giả Gotama không biết, không thấy lạc khổ?”, Ngài đáp: “Này Timbaruka, không phải Ta không biết, không thấy lạc khổ. Này Timbaruka, Ta biết lạc khổ. Này Timbaruka, Ta thấy lạc khổ”.
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, natthi sukhadukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho, timbaruka, natthi sukhadukkhaṃ;
atthi kho, timbaruka, sukhadukkhan’ti vadesi.
‘Tena hi bhavaṃ gotamo sukhadukkhaṃ na jānāti, na passatī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkhaṃ na jānāmi, na passāmi. Jānāmi khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, timbaruka, sukhadukkhan’ti vadesi.
Vậy Tôn giả Gotama hãy nói lên cho con về lạc khổ.
Ācikkhatu ca me bhavaṃ gotamo sukhadukkhaṃ.
Vậy Tôn giả Gotama hãy thuyết cho con về lạc khổ.”
Desetu ca me bhavaṃ gotamo sukhadukkhan”ti.
—Sự cảm thọ và người cảm thọ là cùng một người. Này Timbaruka, như Ông nói ban đầu: “Lạc khổ do tự mình làm ra”, Ta nói không phải vậy.
“‘Sā vedanā, so vedayatī’ti kho, timbaruka, ādito sato ‘sayaṅkataṃ sukhadukkhan’ti evampāhaṃ na vadāmi.
Cảm thọ và người cảm thọ là khác nhau, này Timbaruka, như vậy đối với người bị cảm thọ, “lạc khổ do người khác làm ra”, Ta nói không phải vậy.
‘Aññā vedanā, añño vedayatī’ti kho, timbaruka, vedanābhitunnassa sato ‘paraṅkataṃ sukhadukkhan’ti evampāhaṃ na vadāmi.
Này Timbaruka, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo.
Ete te, timbaruka, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti:
‘vô minh duyên hành;
‘avijjāpaccayā saṅkhārā;
hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên.
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ ...pe...
Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.
Nhưng do ly tham và đoạn diệt hoàn toàn vô minh, các hành diệt.
Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho;
Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt’.”
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’”ti.
Khi được nói vậy, du sĩ Timbaruka bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, timbaruko paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:
—Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ... (như trên) ...
“abhikkantaṃ, bho gotama ...pe...
Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Xin Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt