Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 12.17

Tương Ưng Bộ 12.17
Saṃyutta Nikāya 12.17

2. Phẩm Đồ Ăn
2. Āhāravagga

Loã Thể
Acelakassapasutta

1) Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

2) Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Rājagaha để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya rājagahaṃ piṇḍāya pāvisi.

3) Lõa thể Kassapa thấy Thế Tôn từ xa đi đến.
Addasā kho acelo kassapo bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ.

Sau khi thấy, lõa thể Kassapa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm;
Disvāna yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi.

sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên.
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

4) Ðứng một bên, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ ṭhito kho acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca:

“Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về một vấn đề. Nếu Tôn giả Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi”.
“puccheyyāma mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ kañcideva desaṃ, sace no bhavaṃ gotamo okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti.

“Này Kassapa, nay không phải thời để hỏi. Chúng ta đã vào trong làng”.
“Akālo kho tāva, kassapa, pañhassa; antaragharaṃ paviṭṭhamhā”ti.

5) Lần thứ hai, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca:

“Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama về một vấn đề. Nếu Tôn giả Gotama cho phép, chúng tôi sẽ hỏi câu hỏi”.
“puccheyyāma mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ kañcideva desaṃ, sace no bhavaṃ gotamo okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti.

“Này Kassapa, nay không phải thời để hỏi. Chúng ta đã vào trong làng”.
“Akālo kho tāva, kassapa, pañhassa; antaragharaṃ paviṭṭhamhā”ti.

6) Lần thứ ba, lõa thể Kassapa... (như trên)... Chúng ta đã vào trong làng.
Tatiyampi kho acelo kassapo ...pe... antaragharaṃ paviṭṭhamhāti.

Khi được nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca:

“Nhưng không phải chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Gotama nhiều chuyện”.
“na kho pana mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ bahudeva pucchitukāmā”ti.

“Vậy hãy hỏi đi, này Kassapa, như Ông muốn”.
“Puccha, kassapa, yadākaṅkhasī”ti.

7) “Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do tự mình làm ra?”
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘sayaṅkataṃ dukkhan’ti?

Thế Tôn đáp: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca.

8) ‘Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do người khác làm ra?’
‘Kiṃ pana, bho gotama, paraṅkataṃ dukkhan’ti?

Thế Tôn đáp: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca.

9) ‘Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do mình làm ra và do người khác làm ra?’
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṅkatañca paraṅkatañca dukkhan’ti?

Thế Tôn đáp: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca.

10) ‘Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?’
‘Kiṃ pana, bho gotama, asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhan’ti?

Thế Tôn đáp: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Mā hevaṃ, kassapā’ti bhagavā avoca.

11) ‘Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?’
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, natthi dukkhan’ti?

‘Này Kassapa, không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa.’
‘Na kho, kassapa, natthi dukkhaṃ. Atthi kho, kassapa, dukkhan’ti.

12) ‘Như vậy, Tôn giả Gotama không biết, không thấy khổ’.
‘Tena hi bhavaṃ gotamo dukkhaṃ na jānāti, na passatī’ti.

‘Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ.
‘Na khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ na jānāmi, na passāmi.

Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ’.”
Jānāmi khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, kassapa, dukkhan’”ti.

13) “Ðược hỏi: ‘Tôn giả Gotama, khổ có phải tự mình làm ra’, Ngài trả lời: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
“Kiṃ nu kho, bho gotama, ‘sayaṅkataṃ dukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi.

Ðược hỏi: ‘Tôn giả Gotama, khổ có phải do người khác làm ra?’, Ngài trả lời: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Kiṃ pana, bho gotama, paraṅkataṃ dukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi.

Ðược hỏi: ‘Tôn giả Gotama, khổ có phải do tự mình làm ra và do người khác làm ra?’, Ngài trả lời: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sayaṅkatañca paraṅkatañca dukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi.

Ðược hỏi: ‘Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?’, Ngài trả lời: ‘Không phải vậy, này Kassapa’.
‘Kiṃ pana, bho gotama, asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ dukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘mā hevaṃ, kassapā’ti vadesi.

Ðược hỏi: ‘Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?’, Ngài trả lời: ‘Không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa’.
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, natthi dukkhan’ti iti puṭṭho samāno ‘na kho, kassapa, natthi dukkhaṃ, atthi kho, kassapa, dukkhan’ti vadesi.

Ðược hỏi: ‘Như vậy Tôn giả Gotama, không biết, không thấy khổ?’, Ngài trả lời: ‘Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ.
‘Tena hi bhavaṃ gotamo dukkhaṃ na jānāti na passatī’ti iti puṭṭho samāno ‘na khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ na jānāmi na passāmi.

Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ.
Jānāmi khvāhaṃ, kassapa, dukkhaṃ; passāmi khvāhaṃ, kassapa, dukkhan’ti vadesi.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên cho con về khổ, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết cho con về khổ.”
Ācikkhatu ca me, bhante, bhagavā dukkhaṃ. Desetu ca me, bhante, bhagavā dukkhan”ti.

14) “‘Một người làm và chính người làm ấy cảm thọ (kết quả). Này Kassapa, như Ông gọi ban đầu ‘khổ do tự mình làm ra’, như vậy có nghĩa là thường kiến.
“‘So karoti so paṭisaṃvedayatī’ti kho, kassapa, ādito sato ‘sayaṅkataṃ dukkhan’ti iti vadaṃ sassataṃ etaṃ pareti.

‘Một người khác làm và một người khác cảm thọ. Này Kassapa, như vậy đối với người bị cảm thọ, được xảy ra như: ‘Khổ do người khác làm ra’, như vậy có nghĩa là đoạn kiến.
‘Añño karoti añño paṭisaṃvedayatī’ti kho, kassapa, vedanābhitunnassa sato ‘paraṅkataṃ dukkhan’ti iti vadaṃ ucchedaṃ etaṃ pareti.

15) Này Kassapa, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo.
Ete te, kassapa, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti:

‘vô minh duyên hành;
‘avijjāpaccayā saṅkhārā;

hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên.
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ ...pe...

Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi.
evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

Nhưng do ly tham và đoạn diệt hoàn toàn vô minh, các hành diệt.
Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho;

Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt’.”
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’”ti.

16) Khi được nghe nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, acelo kassapo bhagavantaṃ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
“abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya ...pe... ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo.
Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia với Thế Tôn, con xin thọ đại giới”.
Labheyyāhaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadan”ti.

17) “Này Kassapa, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, nếu chúng Tăng đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
“Yo kho, kassapa, aññatitthiyapubbo imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajjaṃ, ākaṅkhati upasampadaṃ, so cattāro māse parivasati. Catunnaṃ māsānaṃ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya.

Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau”.
Api ca mayā puggalavemattatā viditā”ti.

18) “Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm nếu chúng Tăng đồng ý, mong chúng Tăng cho con xuất gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo”.
“Sace, bhante, aññatitthiyapubbo imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajjaṃ, ākaṅkhati upasampadaṃ, cattāro māse parivasati. Catunnaṃ māsānaṃ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya. Ahaṃ cattāri vassāni parivasissāmi, catunnaṃ vassānaṃ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājentu upasampādentu bhikkhubhāvāyā”ti.

19) Và lõa thể Kassapa được xuất gia với Thế Tôn và được thọ đại giới.
Alattha kho acelo kassapo bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha upasampadaṃ.

20) Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Kassapa ở một mình, an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến; đó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong đời sống hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Acirūpasampanno ca panāyasmā kassapo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.

Vị này chứng tri: “Sanh đã tận. Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti abbhaññāsi.

21) Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro ca panāyasmā kassapo arahataṃ ahosīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt