Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 12.31

Tương Ưng Bộ 12.31
Saṃyutta Nikāya 12.31

4. Phẩm Kaḷāra - Vị Sát-đế-lỵ
4. Kaḷārakhattiyavagga

Sanh
Bhūtasutta

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati.

Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Sāriputta:
Tatra kho bhagavā āyasmantaṃ sāriputtaṃ āmantesi:

“Này Sāriputta, trong kinh Con Đường Đến Bờ Kia, đoạn các câu hỏi của Ajita, có bài:
“vuttamidaṃ, sāriputta, pārāyane ajitapañhe:

Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
‘Ye ca saṅkhātadhammāse,
ye ca sekkhā puthū idha;
Tesaṃ me nipako iriyaṃ,
puṭṭho pabrūhi mārisā’ti.

Này Sāriputta, lời nói tóm tắt này, ý nghĩa cần phải được nhận hiểu một cách rộng rãi như thế nào?”
Imassa nu kho, sāriputta, saṅkhittena bhāsitassa kathaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti?

Ðược nói vậy, Tôn giả Sāriputta giữ im lặng.
Evaṃ vutte, āyasmā sāriputto tuṇhī ahosi.

Lần thứ hai, Thế Tôn gọi Tôn giả Sāriputta... (như trên)... Lần thứ hai, Tôn giả Sāriputta giữ im lặng.
Dutiyampi kho bhagavā āyasmantaṃ sāriputtaṃ āmantesi ...pe... dutiyampi kho āyasmā sāriputto tuṇhī ahosi.

Lần thứ ba, Thế Tôn gọi Tôn giả Sāriputta: “Này Sāriputta, trong kinh Karàyana, đoạn các câu hỏi của Ajita, có bài:
Tatiyampi kho bhagavā āyasmantaṃ sāriputtaṃ āmantesi: “vuttamidaṃ, sāriputta, pārāyane ajitapañhe:

Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
‘Ye ca saṅkhātadhammāse,
ye ca sekkhā puthū idha;
Tesaṃ me nipako iriyaṃ,
puṭṭho pabrūhi mārisā’ti.

Này Sāriputta, lời nói tóm tắt này, ý nghĩa cần phải được nhận hiểu một cách rộng rãi như thế nào?”
Imassa nu kho, sāriputta, saṅkhittena bhāsitassa kathaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti?

Lần thứ ba, Tôn giả Sāriputta giữ im lặng.
Tatiyampi kho āyasmā sāriputto tuṇhī ahosi.

“Này Sāriputta, Ông có thấy cái này được sinh thành?”
“Bhūtamidanti, sāriputta, passasī”ti?

“Bạch Thế Tôn, vị ấy với chánh trí tuệ thấy như chơn cái này được sinh thành.
“Bhūtamidanti, bhante, yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với cái được sinh thành,
Bhūtamidanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā bhūtassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.

vị ấy thấy với chánh trí tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục sanh do một loại đồ ăn, vị ấy lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā āhārasambhavassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.

Do sự đoạn diệt của một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị sự đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Do sự đoạn diệt một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt. Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, vị ấy thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự vật phải bị đoạn diệt.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā nirodhadhammassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.

Như vậy, bạch Thế Tôn, là bậc hữu học.
Evaṃ kho, bhante, sekkho hoti.

Và bạch Thế Tôn, như thế nào là thuần thục rõ các Pháp?
Kathañca, bhante, saṅkhātadhammo hoti?

Bạch Thế Tôn, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ cái này được sinh thành.
Bhūtamidanti, bhante, yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Cái này được sinh thành; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với cái được sinh thành, vị ấy được giải thoát không có chấp thủ.
Bhūtamidanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā bhūtassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti.

Vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục sanh do một loại đồ ăn, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự tục sanh do một loại đồ ăn, vị ấy được giải thoát, không chấp thủ.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā āhārasambhavassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti.

Do sự đoạn diệt của một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Do sự đoạn diệt một loại đồ ăn, cái được sinh thành phải bị đoạn diệt; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự vật phải bị đoạn diệt, vị ấy được giải thoát, không có chấp thủ.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā nirodhadhammassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti.

Như vậy, bạch Thế Tôn, là thuần thục rõ các Pháp.
Evaṃ kho, bhante, saṅkhātadhammo hoti.

Như vậy, bạch Thế Tôn, như đã được nói trong kinh Con Đường Đến Bờ Kia, đoạn các câu hỏi của Ajita, có bài:
Iti kho, bhante, yaṃ taṃ vuttaṃ pārāyane ajitapañhe:

Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
‘Ye ca saṅkhātadhammāse,
ye ca sekkhā puthū idha;
Tesaṃ me nipako iriyaṃ,
puṭṭho pabrūhi mārisā’ti.

Bạch Thế Tôn, lời nói tóm tắt này, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy”.
Imassa khvāhaṃ, bhante, saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

Lành thay, lành thay! Cái này được sinh thành, này Sāriputta, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ.
“Sādhu sādhu, sāriputta, bhūtamidanti, sāriputta, yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Cái này được sinh thành; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt, đối với cái được sinh thành.
Bhūtamidanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā bhūtassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.

Vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn, lại thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā āhārasambhavassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.

Do sự đoạn diệt của một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Do sự đoạn diệt với một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, vị ấy thực hành sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự vật phải bị đoạn diệt.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā nirodhadhammassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.

Như vậy, này Sāriputta, là bậc hữu học.
Evaṃ kho, sāriputta, sekkho hoti.

Và này Sāriputta, như thế nào là thuần thục rõ các Pháp?
Kathañca, sāriputta, saṅkhātadhammo hoti?

Này Sāriputta, cái này được sinh thành, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ.
Bhūtamidanti, sāriputta, yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Cái này được sinh thành; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với cái được sinh thành, vị ấy được giải thoát, không có chấp thủ.
Bhūtamidanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā bhūtassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti.

Vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ sự tục sanh do một loại đồ ăn.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, sự tục sanh do một loại đồ ăn, đối với sự tục sanh do một loại đồ ăn, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt, vị ấy được giải thoát, không chấp thủ.
Tadāhārasambhavanti yathābhūtaṃ sammappaññāya disvā āhārasambhavassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti.

Do sự đoạn diệt một loại đồ ăn, cái được sinh thành ấy phải bị đoạn diệt, vị ấy thấy như chơn với chánh trí tuệ.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññāya passati.

Do sự đoạn diệt một loại đồ ăn, cái được sinh thành phải bị đoạn diệt; sau khi thấy như chơn với chánh trí tuệ, do sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt đối với sự vật phải bị đoạn diệt, vị ấy được giải thoát không có chấp thủ.
Tadāhāranirodhā yaṃ bhūtaṃ taṃ nirodhadhammanti yathābhūtaṃ sammappaññā disvā nirodhadhammassa nibbidā virāgā nirodhā anupādā vimutto hoti.

Như vậy, này Sāriputta, là thuần thục rõ các Pháp.
Evaṃ kho, sāriputta, saṅkhātadhammo hoti.

Như vậy, này Sāriputta, như đã được nói trong kinh Con Đường Đến Bờ Kia, đoạn các câu hỏi của Ajita, có bài:
Iti kho, sāriputta, yaṃ taṃ vuttaṃ pārāyane ajitapañhe:

Thuần thục pháp hữu vi,
Ở đây nhiều hữu học,
Trí tuệ những vị ấy,
Trong uy nghi của họ,
Hãy đáp lời ta hỏi,
Nói lên, này Thân hữu!
‘Ye ca saṅkhātadhammāse,
ye ca sekkhā puthū idha;
Tesaṃ me nipako iriyaṃ,
puṭṭho pabrūhi mārisā’ti.

Này Sāriputta, lời nói tóm tắt này cần hiểu ý nghĩa một cách, rộng rãi như vậy”.
Imassa kho, sāriputta, saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt