Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 12.68

Tương Ưng Bộ 12.68
Saṃyutta Nikāya 12.68

7. Đại Phẩm Thứ Bảy
7. Mahāvagga

Kosambī
Kosambisutta

Một thời Tôn giả Musīla, Tôn giả Saviṭṭha, Tôn giả Nārada, Tôn giả Ānanda trú ở Kosambī, vườn Ghositā.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca musilo āyasmā ca paviṭṭho āyasmā ca nārado āyasmā ca ānando kosambiyaṃ viharanti ghositārāme.

Rồi Tôn giả Saviṭṭha nói với Tôn giả Musīla:
Atha kho āyasmā paviṭṭho āyasmantaṃ musilaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Musīla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musīla tự mình có trí biết được:
“aññatreva, āvuso musila, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato musilassa paccattameva ñāṇaṃ:

‘Do duyên sanh, già chết sanh khởi’?”
‘jātipaccayā jarāmaraṇan’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi có biết được, tôi có thấy được:
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi:

‘Do duyên sanh, già chết sanh khởi’.”
‘jātipaccayā jarāmaraṇan’”ti.

“Này Hiền giả Musīla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musīla tự mình có trí biết được:
“Aññatreva, āvuso musila, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato musilassa paccattameva ñāṇaṃ:

‘Do duyên hữu, nên sanh sinh khởi... (như trên)...
‘bhavapaccayā jātīti ...pe...

Do duyên thủ nên hữu sanh khởi ...
upādānapaccayā bhavoti ...

Do duyên ái nên thủ sanh khởi ...
taṇhāpaccayā upādānanti ...

Do duyên thọ nên ái sanh khởi ...
vedanāpaccayā taṇhāti ...

Do duyên xúc nên thọ sanh khởi ...
phassapaccayā vedanāti ...

Do duyên sáu xứ nên xúc sanh khởi ...
saḷāyatanapaccayā phassoti ...

Do duyên danh sắc nên sáu xứ sanh khởi ...
nāmarūpapaccayā saḷāyatananti ...

Do duyên thức nên danh sắc sanh khởi ...
viññāṇapaccayā nāmarūpanti ...

Do duyên hành nên thức sanh khởi ...
saṅkhārapaccayā viññāṇanti ...

Do duyên vô minh nên hành sanh khởi?”
avijjāpaccayā saṅkhārā’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết được, tôi thấy được:
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi:

‘Do duyên vô minh, các hành sanh khởi’.”
‘avijjāpaccayā saṅkhārā’”ti.

“Này Hiền giả Musīla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài sự thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musīla tự mình có trí biết như sau:
“Aññatreva, āvuso musila, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato musilassa paccattameva ñāṇaṃ:

‘Do sanh diệt, nên già chết diệt’?”
‘jātinirodhā jarāmaraṇanirodho’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau:
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi:

‘Do sanh diệt, nên già chết diệt’.”
‘jātinirodhā jarāmaraṇanirodho’”ti.

“Này Hiền giả Musīla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musīla tự mình có trí biết như sau:
“Aññatreva, āvuso musila, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato musilassa paccattameva ñāṇaṃ:

‘Do hữu diệt, nên sanh diệt ...
‘bhavanirodhā jātinirodhoti ...pe...

Do thủ diệt, nên hữu diệt...
upādānanirodhā bhavanirodhoti ...

Do ái diệt, nên thủ diệt...
taṇhānirodhā upādānanirodhoti ...

Do thọ diệt, nên ái diệt...
vedanānirodhā taṇhānirodhoti ...

Do xúc diệt nên thọ diệt...
phassanirodhā vedanānirodhoti ...

Do sáu xứ diệt, nên xúc diệt...
saḷāyatananirodhā phassanirodhoti ...

Do danh sắc diệt, nên sáu xứ diệt...
nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodhoti ...

Do thức diệt, nên danh sắc diệt...
viññāṇanirodhā nāmarūpanirodhoti ...

Do hành diệt, nên thức diệt...
saṅkhāranirodhā viññāṇanirodhoti ...

Do vô minh diệt, nên hành diệt?”
avijjānirodhā saṅkhāranirodho’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau:
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi:

‘Do vô minh diệt, nên hành diệt’.”
‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho’”ti.

“Này Hiền giả Musīla, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Musīla tự mình có trí biết như sau:
“Aññatreva, āvuso musila, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato musilassa paccattameva ñāṇaṃ:

‘Do hữu diệt là Niết-bàn’?”
‘bhavanirodho nibbānan’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau:
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi:

‘Do hữu diệt là Niết-bàn’.”
‘bhavanirodho nibbānan’”ti.

“Như vậy, Tôn giả Musīla là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?”
“Tenahāyasmā musilo arahaṃ khīṇāsavo”ti?

Khi nghe nói vậy, Tôn giả Musīla giữ im lặng.
Evaṃ vutte, āyasmā musilo tuṇhī ahosi.

Rồi Tôn giả Nārada nói với Tôn giả Saviṭṭha:
Atha kho āyasmā nārado āyasmantaṃ paviṭṭhaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Saviṭṭha, lành thay nếu tôi được hỏi câu này.
“sādhāvuso paviṭṭha, ahaṃ etaṃ pañhaṃ labheyyaṃ.

Hãy hỏi tôi câu hỏi này, và tôi sẽ trả lời cho Hiền giả câu hỏi này”.
Maṃ etaṃ pañhaṃ puccha. Ahaṃ te etaṃ pañhaṃ byākarissāmī”ti.

“Tôn giả Nārada hãy lấy câu hỏi này. Tôi sẽ hỏi Tôn giả Nārada câu hỏi này. Và Tôn giả Nārada hãy trả lời cho tôi câu hỏi này.
“Labhatāyasmā nārado etaṃ pañhaṃ. Pucchāmahaṃ āyasmantaṃ nāradaṃ etaṃ pañhaṃ. Byākarotu ca me āyasmā nārado etaṃ pañhaṃ.

(Tôn giả Saviṭṭha lặp lại chính xác một loạt câu hỏi tương tự, và Tôn giả Nārada trả lời giống như Tôn giả Musīla đã làm.)

“Này Hiền giả Nārada, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Nārada tự mình có trí biết được: ‘Do duyên sanh, già chết sanh khởi’?”
Aññatreva, āvuso nārada, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato nāradassa paccattameva ñāṇaṃ: ‘jātipaccayā jarāmaraṇan’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự hành tướng, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi có biết được, tôi có thấy được: ‘Do duyên sanh, già chết sanh khởi’.”
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi: ‘jātipaccayā jarāmaraṇan’”ti.

“Này Hiền giả Nārada, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Nārada tự mình có trí biết được: ‘Do duyên hữu, nên sanh sinh khởi ... Do duyên vô minh nên hành sanh khởi?”
“Aññatreva, āvuso nārada, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato nāradassa paccattameva ñāṇaṃ— bhavapaccayā jāti ...pe... avijjāpaccayā saṅkhārā”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết được, tôi thấy được: ‘Do duyên vô minh, các hành sanh khởi’.”
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi: ‘avijjāpaccayā saṅkhārā’”ti.

“Này Hiền giả Nārada, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài sự thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Nārada tự mình có trí biết như sau: ‘Do sanh diệt, nên già chết diệt’?”
“Aññatreva, āvuso nārada, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato nāradassa paccattameva ñāṇaṃ: ‘jātinirodhā jarāmaraṇanirodho’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: ‘Do sanh diệt, nên già chết diệt’.”
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi: ‘jātinirodhā jarāmaraṇanirodho’”ti.

“Này Hiền giả Nārada, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Nārada tự mình có trí biết như sau: ‘Do hữu diệt, nên sanh diệt ... Do vô minh diệt, nên hành diệt?”
“Aññatreva, āvuso nārada, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato nāradassa paccattameva ñāṇaṃ: ‘bhavanirodhā jātinirodhoti ...pe... avijjānirodhā saṅkhāranirodho’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: ‘Do vô minh diệt, nên hành diệt’.”
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi:
‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho’”ti.

“Này Hiền giả Nārada, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, Tôn giả Nārada tự mình có trí biết như sau: ‘Do hữu diệt là Niết-bàn’?”
“Aññatreva, āvuso nārada, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā atthāyasmato nāradassa paccattameva ñāṇaṃ: ‘bhavanirodho nibbānan’”ti?

“Này Hiền giả Saviṭṭha, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài truyền thuyết, ngoài thẩm lự các điều kiện, ngoài thẩm định và chấp nhận quan điểm, tôi biết như sau, tôi thấy như sau: ‘Do hữu diệt là Niết-bàn’.”
“Aññatreva, āvuso paviṭṭha, saddhāya aññatra ruciyā aññatra anussavā aññatra ākāraparivitakkā aññatra diṭṭhinijjhānakkhantiyā ahametaṃ jānāmi ahametaṃ passāmi: ‘bhavanirodho nibbānan’”ti.

“Như vậy, Tôn giả Nārada là bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc?”
“Tenahāyasmā nārado arahaṃ khīṇāsavo”ti?

“Này Hiền giả, “Do hữu diệt là Niết-bàn”, tôi khéo thấy như chơn nhờ chánh trí tuệ. Nhưng tôi không phải là vị A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc.
“‘Bhavanirodho nibbānan’ti kho me, āvuso, yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, na camhi arahaṃ khīṇāsavo.

Ví như, này Hiền giả, trên một con đường hoang vắng có một giếng nước. Tại đấy không có dây, không có gàu nước.
Seyyathāpi, āvuso, kantāramagge udapāno, tatra nevassa rajju na udakavārako.

Rồi có người đi đến, bị nóng bức bách, bị nóng áp đảo, mệt mỏi, run rẩy, khát nước.
Atha puriso āgaccheyya ghammābhitatto ghammapareto kilanto tasito pipāsito, so taṃ udapānaṃ olokeyya.

Người ấy ngó xuống giếng và biết được: ‘Giếng này có nước’, nhưng đứng chịu, thân thể không chạm nước.
Tassa ‘udakan’ti hi kho ñāṇaṃ assa, na ca kāyena phusitvā vihareyya.

Cũng vậy, này Hiền giả, ‘Hữu diệt là Niết-bàn’, tôi khéo thấy như chơn nhờ chánh trí tuệ, nhưng tôi không phải là vị A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc.
Evameva kho, āvuso, ‘bhavanirodho nibbānan’ti yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ, na camhi arahaṃ khīṇāsavo”ti.

Khi được nói vậy, Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Saviṭṭha:
Evaṃ vutte, āyasmā ānando āyasmantaṃ paviṭṭhaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Saviṭṭha, nói như vậy thời Hiền giả nói gì về Tôn giả Nārada?”
“evaṃvādī tvaṃ, āvuso paviṭṭha, āyasmantaṃ nāradaṃ kiṃ vadesī”ti?

“Này Hiền giả Ānanda, nói như vậy, tôi không nói gì về Tôn giả Nārada, ngoài sự tốt lành, ngoài sự tốt đẹp.”
“Evaṃvādāhaṃ, āvuso ānanda, āyasmantaṃ nāradaṃ na kiñci vadāmi aññatra kalyāṇā aññatra kusalā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt