Tương Ưng Bộ 17.3
Saṃyutta Nikāya 17.3
Phẩm Thứ Nhất
1. Paṭhamavagga
Con Rùa
Kummasutta
Tại Sāvatthī.
Sāvatthiyaṃ viharati.
“Khổ lụy, này các Tỷ-kheo, là lợi đắc, cung kính, danh vọng; thật là đắng cay, ác độc, là chướng ngại pháp để chứng đắc vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách.
“Dāruṇo, bhikkhave, lābhasakkārasiloko ...pe... adhigamāya.
Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, trong một hồ nước có một gia đình con rùa sống tại đấy đã lâu ngày.
Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, aññatarasmiṃ udakarahade mahākummakulaṃ ciranivāsi ahosi.
Rồi này các Tỷ-kheo, một con rùa nói với một con rùa khác:
Atha kho, bhikkhave, aññataro kummo aññataraṃ kummaṃ etadavoca:
‘Này Rùa thân mến, chớ có đi đến chỗ ấy.’
‘mā kho tvaṃ, tāta kumma, etaṃ padesaṃ agamāsī’ti.
Con rùa này, này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ ấy.
Agamāsi kho, bhikkhave, so kummo taṃ padesaṃ.
và một thợ săn phóng trúng nó với cây lao có dây.
Tamenaṃ luddo papatāya vijjhi.
Rồi con rùa ấy đi đến con rùa kia.
Atha kho, bhikkhave, so kummo yena so kummo tenupasaṅkami.
Này các Tỷ-kheo, con rùa kia, thấy con rùa này từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với con rùa này:
Addasā kho, bhikkhave, so kummo taṃ kummaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna taṃ kummaṃ etadavoca:
‘Này Rùa thân mến, có phải Bạn đi đến chỗ kia?’
‘kacci tvaṃ, tāta kumma, na taṃ padesaṃ agamāsī’ti?
‘Này Rùa thân mến, tôi đi đến chỗ kia.’
‘Agamāsiṃ khvāhaṃ, tāta kumma, taṃ padesan’ti.
‘Này Rùa thân mến, bạn có bị thương, bị bắn trúng không?’
‘Kacci panāsi, tāta kumma, akkhato anupahato’ti?
‘Này Rùa thân mến, tôi không bị thương, không bị bắn trúng. Nhưng có sợi dây này dính theo trên lưng tôi.’
‘Akkhato khomhi, tāta kumma, anupahato, atthi ca me idaṃ suttakaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhan’ti.
‘Này Rùa thân mến, Bạn thật bị thương rồi, Bạn thật bị bắn trúng rồi.
‘Tagghasi, tāta kumma, khato, taggha upahato.
Này Rùa thân mến, chính do vật dụng của người thợ săn này, mà cha Bạn và Ông Bạn rơi vào bất hạnh, rơi vào tai họa.
Etena hi te, tāta kumma, suttakena pitaro ca pitāmahā ca anayaṃ āpannā byasanaṃ āpannā.
Nay Bạn hãy đi, Rùa thân mến. Nay Bạn không còn thuộc chúng ta nữa.’
Gaccha dāni tvaṃ, tāta kumma, na dāni tvaṃ amhākan’ti.
‘Người thợ săn’, này các Tỷ-kheo, chỉ cho ác ma.
Luddoti kho, bhikkhave, mārassetaṃ pāpimato adhivacanaṃ.
‘Cái lao’, này các Tỷ-kheo, chỉ cho lợi đắc, cung kính, danh vọng.
Papatāti kho, bhikkhave, lābhasakkārasilokassetaṃ adhivacanaṃ.
‘Sợi dây’, này các Tỷ-kheo, chỉ cho hỷ tham.
Suttakanti kho, bhikkhave, nandīrāgassetaṃ adhivacanaṃ.
Tỷ-kheo nào, này các Tỷ-kheo, đối với lợi đắc, cung kính, danh vọng, hưởng thọ và ái luyến; vị ấy, này các Tỷ-kheo, được gọi là Tỷ-kheo bị lao đâm phải, đã rơi vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, bị ác ma muốn làm gì thì làm.
Yo hi koci, bhikkhave, bhikkhu uppannaṃ lābhasakkārasilokaṃ assādeti nikāmeti—ayaṃ vuccati, bhikkhave, bhikkhu giddho papatāya anayaṃ āpanno byasanaṃ āpanno yathākāmakaraṇīyo pāpimato.
Như vậy, khổ lụy, này các Tỷ-kheo, là lợi đắc, cung kính, danh vọng...”
Evaṃ dāruṇo kho, bhikkhave, lābhasakkārasiloko ...pe...
Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải tu học”.
evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabban”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt