Tương Ưng Bộ 2.24
Saṃyutta Nikāya 2.24
3. Phẩm Các Ngoại Đạo
3. Nānātitthiyavagga
Ghatikara
Ghaṭīkārasutta
Ðứng một bên, Thiên tử Ghaṭīkāra nói lên bài kệ này trước mặt Thế Tôn:
Ekamantaṃ ṭhito kho ghaṭīkāro devaputto bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi:
“Ðược sanh Vô phiền thiên,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và sân,
Siêu thoát đời ái trược.”
“Avihaṃ upapannāse,
vimuttā satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇā,
tiṇṇā loke visattikan”ti.
“Vượt bùn, họ là ai?
Khó vượt lệnh thần chết,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên.”
“Ke ca te ataruṃ paṅkaṃ,
maccudheyyaṃ suduttaraṃ;
Ke hitvā mānusaṃ dehaṃ,
dibbayogaṃ upaccagun”ti.
Họ là Upaka,
Và Phalaganda,
Với Pukkusāti,
Hợp thành là ba vị.
Lại thêm Bhaddiya,
Với Khandadeva,
Và Bāhuraggi,
Cùng với Pingiya,
Sau khi bỏ thân người,
Họ thoát ách chư Thiên.”
“Upako palagaṇḍo ca,
pukkusāti ca te tayo;
Bhaddiyo khaṇḍadevo ca,
bāhuraggi ca saṅgiyo;
Te hitvā mānusaṃ dehaṃ,
dibbayogaṃ upaccagun”ti.
(Thế Tôn):
“Ông nói điều tốt lành,
Về bảy Tỷ-kheo ấy,
Họ thoát ly, đoạn trừ,
Các cạm bẫy Ma vương.
Pháp họ biết, của ai
Ðoạn được hữu kiết sử?”
“Kusalī bhāsasī tesaṃ,
mārapāsappahāyinaṃ;
Kassa te dhammamaññāya,
acchiduṃ bhavabandhanan”ti.
(Ghaṭīkāra):
“Không ai ngoài Thế Tôn,
Chính thật giáo lý Ngài,
Họ biết pháp của Ngài,
Ðoạn được hữu kiết sử.
“Na aññatra bhagavatā,
nāññatra tava sāsanā;
Yassa te dhammamaññāya,
acchiduṃ bhavabandhanaṃ.
Chỗ nào danh và sắc,
Ðược đoạn diệt không dư,
Họ học được pháp ấy,
Ở đây từ nơi Ngài.
Nhờ vậy họ đoạn trừ,
Hữu kiết sử trói buộc.”
Yattha nāmañca rūpañca,
asesaṃ uparujjhati;
Taṃ te dhammaṃ idhaññāya,
acchiduṃ bhavabandhanan”ti.
(Thế Tôn):
“Lời Ông nói thâm sâu,
Khó biết, khó chứng ngộ,
Pháp Ông biết của ai,
Sao Ông không nói được?
“Gambhīraṃ bhāsasī vācaṃ,
dubbijānaṃ sudubbudhaṃ;
Kassa tvaṃ dhammamaññāya,
vācaṃ bhāsasi īdisan”ti.
(Ghaṭīkāra):
“Thuở xưa, con thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và con được tên gọi,
Là Ghaṭīkāra.
Chính con lo nuôi dưỡng
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Con đệ tử tại gia.
“Kumbhakāro pure āsiṃ,
vekaḷiṅge ghaṭīkaro;
Mātāpettibharo āsiṃ,
kassapassa upāsako.
Con viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật,
Thuở xưa, con đồng hương,
Cũng là bạn của họ
Virato methunā dhammā,
brahmacārī nirāmiso;
Ahuvā te sagāmeyyo,
ahuvā te pure sakhā.
Do vậy con biết họ,
Bảy Tỷ-kheo giải thoát,
Ðoạn tận tham và sân,
Vượt qua đời phiền trược.”
Sohamete pajānāmi,
vimutte satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇe,
tiṇṇe loke visattikan”ti.
(Thế Tôn):
“Vậy này Bhaggava,
Chính như Ông vừa nói,
Thuở xưa, Ông thợ gốm,
Tại Vehalinga,
Và Ông được tên gọi,
Là Ghaṭīkāra,
“Evametaṃ tadā āsi,
yathā bhāsasi bhaggava;
Kumbhakāro pure āsi,
vekaḷiṅge ghaṭīkaro.
Chính Ông lo nuôi dưỡng
Cả mẹ lẫn cả cha,
Ðối với Phật Ca-diếp,
Ông đệ tử tại gia,
Ông viễn ly dâm dục,
Phạm hạnh, không thế vật.
Thuở xưa, Ông đồng hương,
Cũng là bạn của Ta.”
Mātāpettibharo āsi,
kassapassa upāsako;
Virato methunā dhammā,
brahmacārī nirāmiso;
Ahuvā me sagāmeyyo,
ahuvā me pure sakhā”ti.
“Như vậy là hội ngộ,
Giữa những bạn thuở xưa,
Cả hai khéo tu tập,
Mang thân này tối hậu.”
“Evametaṃ purāṇānaṃ,
sahāyānaṃ ahu saṅgamo;
Ubhinnaṃ bhāvitattānaṃ,
sarīrantimadhārinan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt