Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 2.23

Tương Ưng Bộ 2.23
Saṃyutta Nikāya 2.23

3. Phẩm Các Ngoại Đạo
3. Nānātitthiyavagga

Seri
Serīsutta

Ðứng một bên, Thiên tử Serī nói lên bài kệ với Thế Tôn:
Ekamantaṃ ṭhito kho serī devaputto bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Cả hai loại Trời, Người,
Ðều ưa thích ăn uống,
Có Dạ-xoa tên nào,
Lại không thích ăn uống?”
“Annamevābhinandanti,
ubhaye devamānusā;
Atha ko nāma so yakkho,
yaṃ annaṃ nābhinandatī”ti.

(Thế Tôn):
“Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món ăn ấy,
Ðời này và đời sau.
“Ye naṃ dadanti saddhāya,
vippasannena cetasā;
Tameva annaṃ bhajati,
asmiṃ loke paramhi ca.

Vậy hãy ngăn xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vẫn hưởng thọ,
Công đức trong đời sau.”
Tasmā vineyya maccheraṃ,
dajjā dānaṃ malābhibhū;
Puññāni paralokasmiṃ,
patiṭṭhā honti pāṇinan”ti.

“Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói điều khéo nói như vậy:
“Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante. Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā:

“Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món ăn ấy,
Ðời này và đời sau.
“Ye naṃ dadanti saddhāya,
vippasannena cetasā;
Tameva annaṃ bhajati,
asmiṃ loke paramhi ca.

Vậy hãy ngăn xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vẫn hưởng thọ,
Công đức trong đời sau.”
dajjā dānaṃ malābhibhū;
Puññāni paralokasmiṃ,
patiṭṭhā honti pāṇinan”ti.

Bạch Thế Tôn, thuở xưa con là vị vua tên Serī ưa bố thí, là bậc thí chủ tán thán bố thí. Bạch Thế Tôn, tại bốn cửa thành, bố thí được phân phát nhân danh con, cho những ai đến xin, cho các vị Bà-la-môn và Sa-môn, cho các người nghèo đói và tàn phế, cho các nhà lữ hành và hành khất.
Bhūtapubbāhaṃ, bhante, sirī nāma rājā ahosiṃ dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Tassa mayhaṃ, bhante, catūsu dvāresu dānaṃ dīyittha samaṇabrāhmaṇakapaṇaddhikavanibbakayācakānaṃ.

Bạch Thế Tôn, khi con đến các cung phi của con, họ thưa với con: “Ðại vương thường hay bố thí, còn chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức.”
Atha kho maṃ, bhante, itthāgāraṃ upasaṅkamitvā etadavoca: ‘devassa kho dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: ‘Chúng ta hãy bố thí’?”. Bạch Thế Tôn, con cho các cung phi cửa thành thứ nhất. Ở đây các cung phi được bố thí, và bố thí của con trở lui lại cho con.
Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi: ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyyan’ti? So khvāhaṃ, bhante, paṭhamaṃ dvāraṃ itthāgārassa adāsiṃ. Tattha itthāgārassa dānaṃ dīyittha; mama dānaṃ paṭikkami.

Rồi bạch Thế Tôn, các Sát-đế-lỵ (Khattiya) chư hầu của con đến con và thưa: “Ðại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức”.
Atha kho maṃ, bhante, khattiyā anuyantā upasaṅkamitvā etadavocuṃ: ‘devassa kho dānaṃ dīyati; itthāgārassa dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: “Chúng ta hãy bố thí”?”. Bạch Thế Tôn, con cho các chư hầu Khattiya cửa thành thứ hai. Ở đây các chư hầu Khattiya được bố thí, và bố thí của con được trở lui lại cho con.
Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi: ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyyan’ti? So khvāhaṃ, bhante, dutiyaṃ dvāraṃ khattiyānaṃ anuyantānaṃ adāsiṃ. Tattha khattiyānaṃ anuyantānaṃ dānaṃ dīyittha, mama dānaṃ paṭikkami.

Rồi bạch Thế Tôn, quân đội đến con và thưa: “Ðại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức”.
Atha kho maṃ, bhante, balakāyo upasaṅkamitvā etadavoca: ‘devassa kho dānaṃ dīyati; itthāgārassa dānaṃ dīyati; khattiyānaṃ anuyantānaṃ dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: “Chúng ta hãy bố thí”?”. Bạch Thế Tôn, con cho quân đội cửa thành thứ ba. Ở đây quân đội được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con.
Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi: ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyyan’ti? So khvāhaṃ, bhante, tatiyaṃ dvāraṃ balakāyassa adāsiṃ. Tattha balakāyassa dānaṃ dīyittha, mama dānaṃ paṭikkami.

Rồi bạch Thế Tôn, các Bà-la-môn gia chủ đến con và thưa: “Ðại vương đã bố thí. Các cung phi đã bố thí. Các chư hầu Khattiya đã bố thí. Quân đội đã bố thí. Chúng con chưa bố thí. Tốt lành thay nếu chúng con được nương tựa Ðại vương để bố thí và làm các công đức!”.
Atha kho maṃ, bhante, brāhmaṇagahapatikā upasaṅkamitvā etadavocuṃ: ‘devassa kho dānaṃ dīyati; itthāgārassa dānaṃ dīyati; khattiyānaṃ anuyantānaṃ dānaṃ dīyati; balakāyassa dānaṃ dīyati; amhākaṃ dānaṃ na dīyati. Sādhu mayampi devaṃ nissāya dānāni dadeyyāma, puññāni kareyyāmā’ti.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: “Ta là người ưa bố thí, là thí chủ tán thán bố thí. Nay ta phải trả lời như thế nào khi họ đến và thưa: “Chúng ta hãy bố thí”?”. Bạch Thế Tôn, con cho các Bà-la-môn gia chủ cửa thành thứ tư. Ở đây các Bà-la-môn gia chủ được bố thí và bố thí của con được trở lui lại cho con.
Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi: ‘ahaṃ khosmi dāyako dānapati dānassa vaṇṇavādī. Dānaṃ dassāmāti vadante kinti vadeyyan’ti? So khvāhaṃ, bhante, catutthaṃ dvāraṃ brāhmaṇagahapatikānaṃ adāsiṃ. Tattha brāhmaṇagahapatikānaṃ dānaṃ dīyittha, mama dānaṃ paṭikkami.

Rồi bạch Thế Tôn, các người của con đến con và thưa: “Nay Ðại vương không còn bố thí nào để cho nữa”.
Atha kho maṃ, bhante, purisā upasaṅkamitvā etadavocuṃ: ‘na kho dāni devassa koci dānaṃ dīyatī’ti.

Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con nói với các người ấy như sau: “Này các Ông, các thuế má thâu hoạch được từ các nước ngoài vào, một nửa hãy gửi vào trong nội thành, một nửa ngay tại chỗ ấy đem bố thí cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, các người nghèo và tàn tật, các nhà lữ hành và hành khất”.
Evaṃ vuttāhaṃ, bhante, te purise etadavocaṃ: ‘tena hi, bhaṇe, yo bāhiresu janapadesu āyo sañjāyati tato upaḍḍhaṃ antepure pavesetha, upaḍḍhaṃ tattheva dānaṃ detha samaṇabrāhmaṇakapaṇaddhikavanibbakayācakānan’ti.

Như vậy, bạch Thế Tôn, con không chấm dứt trong một thời gian dài các việc làm công đức, trong một thời gian dài các việc làm thiện, những việc làm được con xem như là công đức, hay như là công đức quả hay như là những điều kiện được sanh thiên giới.
So khvāhaṃ, bhante, evaṃ dīgharattaṃ katānaṃ puññānaṃ evaṃ dīgharattaṃ katānaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ pariyantaṃ nādhigacchāmi— ettakaṃ puññanti vā ettako puññavipākoti vā ettakaṃ sagge ṭhātabbanti vāti.

Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói lên điều khéo nói như vầy:
Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante. Yāvasubhāsitamidaṃ, bhante, bhagavatā:

“Ai cho với lòng tin,
Với tâm tư thanh tịnh,
Ðược phần món ăn ấy,
Ðời này và đời sau.
‘Ye naṃ dadanti saddhāya,
vippasannena cetasā;
Tameva annaṃ bhajati,
asmiṃ loke paramhi ca.

Vậy hãy ngăn xan tham,
Bố thí, nhiếp cấu uế,
Chúng sanh vẫn hưởng thọ,
Công đức trong đời sau.”
dajjā dānaṃ malābhibhū;
Puññāni paralokasmiṃ,
patiṭṭhā honti pāṇinan’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt