Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 21.1

Tương Ưng Bộ 21.1
Saṃyutta Nikāya 21.1

Phẩm Tỷ-kheo
1. Bhikkhuvagga

Kinh Kolita
Kolitasutta

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika.
Evaṃ me sutaṃ—ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Tại đấy, Tôn giả Mahāmoggallāna (Ðại Mục-kiền-liên) gọi các Tỷ-kheo: “Này các Hiền giả Tỷ-kheo”.
Tatra kho āyasmā mahāmoggallāno bhikkhū āmantesi: “āvuso bhikkhave”ti.

“Thưa vâng, Hiền giả”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahāmoggallāna.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato mahāmoggallānassa paccassosuṃ.

Tôn giả Mahāmoggallāna nói:
Āyasmā mahāmoggallāno etadavoca:

“Ở đây, này Hiền giả, trong khi tôi độc trú tĩnh cư, tâm tưởng tư duy như sau được khởi lên: ‘Thánh im lặng được gọi là Thánh im lặng. Thế nào là Thánh im lặng?’
“idha mayhaṃ, āvuso, rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi: ‘ariyo tuṇhībhāvo, ariyo tuṇhībhāvoti vuccati. Katamo nu kho ariyo tuṇhībhāvo’ti?

Rồi này các Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: ‘Ở đây, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Như vậy gọi là Thánh im lặng’.
Tassa mayhaṃ āvuso, etadahosi: ‘idha bhikkhu vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati ariyo tuṇhībhāvo’ti.

Rồi này các Hiền giả, tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
So khvāhaṃ, āvuso, vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihariṃ.

Này các Hiền giả, khi tôi an trú với sự an trú như vậy, các tưởng câu hữu với tầm, các tác ý hiện khởi và hiện hành.
Tassa mayhaṃ, āvuso, iminā vihārena viharato vitakkasahagatā saññā manasikārā samudācaranti.

Rồi này các Hiền giả, Thế Tôn bằng thần thông đến với tôi và nói: ‘Moggallāna, Moggallāna, chớ có phóng dật. Này Bà-la-môn, đối với Thánh im lặng, hãy an trú tâm vào Thánh im lặng, hãy trú nhất tâm vào Thánh im lặng, hãy trú định tâm vào Thánh im lặng’.
Atha kho maṃ, āvuso, bhagavā iddhiyā upasaṅkamitvā etadavoca: ‘moggallāna moggallāna, mā, brāhmaṇa, ariyaṃ tuṇhībhāvaṃ pamādo, ariye tuṇhībhāve cittaṃ saṇṭhapehi, ariye tuṇhībhāve cittaṃ ekodibhāvaṃ karohi, ariye tuṇhībhāve cittaṃ samādahā’ti.

Rồi này các Hiền giả, sau một thời gian, tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm.
So khvāhaṃ, āvuso, aparena samayena vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

Này các Hiền giả, nếu ai nói một cách chơn chánh, sẽ nói như sau: ‘Ðược bậc Ðạo Sư hỗ trợ, vị đệ tử chứng đạt đại thắng trí’. Người ấy nói một cách chơn chánh, sẽ nói về tôi: ‘Ðược bậc Ðạo Sư hỗ trợ, vị đệ tử chứng đạt đại thắng trí’.”
Yañhi taṃ, āvuso, sammā vadamāno vadeyya: ‘satthārā anuggahito sāvako mahābhiññataṃ patto’ti, mamaṃ taṃ sammā vadamāno vadeyya: ‘satthārā anuggahito sāvako mahābhiññataṃ patto’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt