Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 21.3

Tương Ưng Bộ 21.3
Saṃyutta Nikāya 21.3

Phẩm Tỷ-kheo
1. Bhikkhuvagga

Một Ghè Muối
Ghaṭasutta

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp-Cô-Ðộc).
Evaṃ me sutaṃ—ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Mahāmoggallāna cùng ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm) tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc, chung một tịnh xá.
Tena kho pana samayena āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahāmoggallāno rājagahe viharanti veḷuvane kalandakanivāpe ekavihāre.

Rồi Tôn giả Sāriputta, từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahāmoggallāna; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahāmoggallāna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu bèn ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Mahāmoggallāna:
Atha kho āyasmā sāriputto sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahāmoggallānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Moggallāna, các căn của Hiền giả thật là tịch tịnh; sắc mặt thật là thanh tịnh, trong sáng. Có phải hôm nay Tôn giả Mahāmoggallāna an trú với sự an trú tịnh lạc?”
“Vippasannāni kho te, āvuso moggallāna, indriyāni; parisuddho mukhavaṇṇo pariyodāto santena nūnāyasmā mahāmoggallāno ajja vihārena vihāsī”ti.

“Thưa Hiền giả, hôm nay tôi an trú với sự an trú thô thiển. Tôi có được một cuộc pháp thoại”.
“Oḷārikena khvāhaṃ, āvuso, ajja vihārena vihāsiṃ. Api ca me ahosi dhammī kathā”ti.

“Với ai, Tôn giả Mahāmoggallāna có được một cuộc đàm luận về Chánh pháp?”
“Kena saddhiṃ panāyasmato mahāmoggallānassa ahosi dhammī kathā”ti?

“Thưa Hiền giả, tôi có một cuộc pháp thoại với Thế Tôn”.
“Bhagavatā kho me, āvuso, saddhiṃ ahosi dhammī kathā”ti.

“Ở xa, thưa Hiền giả, là Thế Tôn. Hiện nay Thế Tôn ở Sāvatthī, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika. Có phải Tôn giả Mahāmoggallāna đi đến Thế Tôn bằng thần thông hay Thế Tôn đi đến Tôn giả Mahāmoggallāna bằng thần thông?”
“Dūre kho, āvuso, bhagavā etarahi sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Kiṃ nu kho āyasmā mahāmoggallāno bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkami; udāhu bhagavā āyasmantaṃ mahāmoggallānaṃ iddhiyā upasaṅkamī”ti?

“Thưa Hiền giả, tôi không đi đến Thế Tôn bằng thần thông. Và Thế Tôn cũng không đi đến tôi bằng thần thông. Tôi như thế nào thời Thế Tôn được thiên nhãn thanh tịnh, cả thiên nhĩ nữa như vậy! Thế Tôn như thế nào thời tôi được thiên nhãn thanh tịnh, cả thiên nhĩ nữa như vậy”.
“Na khvāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ iddhiyā upasaṅkamiṃ; napi maṃ bhagavā iddhiyā upasaṅkami. Api ca me yāvatā bhagavā ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātu. Bhagavatopi yāvatāhaṃ ettāvatā dibbacakkhu visujjhi dibbā ca sotadhātū”ti.

“Như thế nào là cuộc pháp thoại giữa Tôn giả Mahāmoggallāna với Thế Tôn?”
“Yathākathaṃ panāyasmato mahāmoggallānassa bhagavatā saddhiṃ ahosi dhammī kathā”ti?

“Ở đây, thưa Hiền giả, tôi bạch với Thế Tôn: ‘Bạch Thế Tôn ở đây tinh cần, tinh tấn, được gọi là tinh cần, tinh tấn. Như thế nào, bạch Thế Tôn, là tinh cần, tinh tấn?’
“Idhāhaṃ, āvuso, bhagavantaṃ etadavocaṃ: ‘āraddhavīriyo āraddhavīriyoti, bhante, vuccati. Kittāvatā nu kho, bhante, āraddhavīriyo hotī’ti?

Khi được nói vậy, thưa Hiền giả, Thế Tôn nói với tôi:
Evaṃ vutte, maṃ, āvuso, bhagavā etadavoca:

‘Ở đây, này Moggallāna, Tỷ-kheo sống tinh cần, tinh tấn: Dầu cho da, dây gân và xương có khô héo, dầu thịt và máu có héo tàn trên thân tôi, cái gì có thể lấy sức lực của người, tinh tấn của người, nỗ lực của người có thể đạt được; nếu chưa đạt được, thời tinh tấn sẽ không bao giờ dừng nghỉ. Như vậy, này Moggallāna, là sự tinh cần, tinh tấn’.
‘idha, moggallāna, bhikkhu āraddhavīriyo viharati—kāmaṃ taco ca nhāru ca aṭṭhi ca avasissatu, sarīre upassussatu maṃsalohitaṃ, yaṃ taṃ purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena pattabbaṃ na taṃ apāpuṇitvā vīriyassa saṇṭhānaṃ bhavissatīti. Evaṃ kho, moggallāna, āraddhavīriyo hotī’ti.

Như vậy, này Hiền giả, là cuộc pháp thoại giữa Thế Tôn và tôi”.
Evaṃ kho me, āvuso, bhagavatā saddhiṃ ahosi dhammī kathā”ti.

“Ví như, này Hiền giả, một đống hòn sạn nhỏ đem đặt dài theo Hy-mã-lạp sơn, vua các loài núi. Cũng vậy, là chúng tôi được đem đặt dài theo Tôn giả Mahāmoggallāna. Mong rằng Tôn giả Mahāmoggallāna, bậc đại thần thông, đại uy lực, nếu muốn hãy sống cho đến một kiếp”.
“Seyyathāpi, āvuso, himavato pabbatarājassa parittā pāsāṇasakkharā yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato mahāmoggallānassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi mahāmoggallāno mahiddhiko mahānubhāvo ākaṅkhamāno kappaṃ tiṭṭheyyā”ti.

“Ví như, này Hiền giả, một nắm muối nhỏ được đem đặt dài theo một ghè muối lớn. Cũng vậy, là chúng tôi được đem đặt dài theo Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện xưng tán, tán thán, tán dương:
“Seyyathāpi, āvuso, mahatiyā loṇaghaṭāya parittā loṇasakkharāya yāvadeva upanikkhepanamattāya; evameva kho mayaṃ āyasmato sāriputtassa yāvadeva upanikkhepanamattāya. Āyasmā hi sāriputto bhagavatā anekapariyāyena thomito vaṇṇito pasattho:

Như vị Xá-lợi-phất,
Về trí tuệ, giới luật,
Và cả về tịch tịnh,
Ông là bậc đệ nhất.
Tỷ-kheo đạt bỉ ngạn,
Cũng là bậc tối thượng.
‘Sāriputtova paññāya,
sīlena upasamena ca;
Yopi pāraṅgato bhikkhu,
etāvaparamo siyā’”ti.

Như vậy, hai bậc Long Tượng ấy cùng nhau hoan hỷ, tán thán trong câu chuyện khéo nói, khéo thuyết.
Itiha te ubho mahānāgā aññamaññassa subhāsitaṃ sulapitaṃ samanumodiṃsūti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt