Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 22.89

Tương Ưng Bộ 22.89
Saṃyutta Nikāya 22.89

Phẩm Trưởng Lão
9. Theravagga

Khemaka
Khemakasutta

Một thời, nhiều Tỷ-kheo Trưởng lão sống ở Kosambi, tại vườn Ghosita. Lúc bấy giờ, Tôn giả Khemaka trú tại vườn Táo, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh.
Ekaṃ samayaṃ sambahulā therā bhikkhū kosambiyaṃ viharanti ghositārāme. Tena kho pana samayena āyasmā khemako badarikārāme viharati ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno.

Rồi các Tỷ-kheo Trưởng lão, vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy và gọi Tôn giả Dāsaka:
Atha kho therā bhikkhū sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhitā āyasmantaṃ dāsakaṃ āmantesuṃ:

“Hãy đến đây, này Hiền giả Dāsaka! Hãy đi đến Tỷ-kheo Khemaka; sau khi đến, hãy nói với Tỷ-kheo Khemaka:
“ehi tvaṃ, āvuso dāsaka, yena khemako bhikkhu tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā khemakaṃ bhikkhuṃ evaṃ vadehi:

‘Này Hiền giả Khemaka, các Trưởng lão nói với Hiền giả như sau: Này Hiền giả, Hiền giả có kham nhẫn được không? Hiền giả có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ tổn giảm không tăng trưởng? Có phải có những dấu hiệu tổn giảm, không phải tăng trưởng’?”
‘therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu—kacci te, āvuso, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti no abhikkamanti, paṭikkamosānaṃ paññāyati no abhikkamo’”ti?

“Thưa vâng, chư Hiền”. Tôn giả Dāsaka vâng đáp các Tỷ-kheo ấy, đi đến Tôn giả Khemaka, sau khi đến, nói với Tôn giả Khemaka:
“Evamāvuso”ti kho āyasmā dāsako therānaṃ bhikkhūnaṃ paṭissutvā yenāyasmā khemako tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ khemakaṃ etadavoca:

“Các Trưởng lão, này Hiền giả Khemaka, nói với Hiền giả như sau: ‘Hiền giả có kham nhẫn được không ... không phải tăng trưởng’?”
“therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu: ‘kacci te, āvuso, khamanīyaṃ ...pe... no abhikkamo’”ti?

“Tôi không có thể kham nhẫn, thưa Hiền giả, tôi không có thể chịu đựng... có những dấu hiệu tăng trưởng, không phải thuyên giảm!”
“Na me, āvuso, khamanīyaṃ na yāpanīyaṃ ...pe... abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamo”ti.

Rồi Tôn giả Dāsaka đi đến các Tỷ-kheo Trưởng lão; sau khi đến, thưa với các Tỷ-kheo Trưởng lão:
Atha kho āyasmā dāsako yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū etadavoca:

“Thưa chư Hiền, Tỷ-kheo Khemaka nói như sau: ‘Tôi không có thể kham nhẫn, này Hiền giả ... có những dấu hiệu tăng trưởng, không phải thuyên giảm!’”
“khemako, āvuso, bhikkhu evamāha: ‘na me, āvuso, khamanīyaṃ ...pe... abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamo’”ti.

“Hãy đến đây, Hiền giả Dāsaka! Hãy đi đến Tỷ-kheo Khemaka; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Khemaka như sau:
“Ehi tvaṃ, āvuso dāsaka, yena khemako bhikkhu tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā khemakaṃ bhikkhuṃ evaṃ vadehi:

‘Này Hiền giả Khemaka, các bậc Trưởng lão nói với Hiền giả như sau: Này Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, Tôn giả Khemaka quán có cái gì là tự ngã hay ngã sở không’?”
‘therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu—pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandho. Imesu āyasmā khemako pañcasu upādānakkhandhesu kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassatī’”ti?

“Thưa vâng, chư Hiền”. Tôn giả Dāsaka vâng đáp các Tỷ-kheo Trưởng lão, đi đến Tôn giả Khemaka, sau khi đến...
“Evamāvuso”ti kho āyasmā dāsako therānaṃ bhikkhūnaṃ paṭissutvā yenāyasmā khemako tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ...pe...

Các bậc Trưởng lão, này Hiền giả, nói với Hiền giả như sau: “Này Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu: “pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, Tôn giả Khemaka quán có cái gì là tự ngã hay ngã sở không?”
viññāṇupādānakkhandho. Imesu āyasmā khemako pañcasu upādānakkhandhesu kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassatī”ti?

“Thưa Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
“Pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, này Hiền giả, tôi không quán cái gì là tự ngã hay ngã sở cả”.
viññāṇupādānakkhandho. Imesu khvāhaṃ, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu na kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassāmī”ti.

Rồi Tôn giả Dāsaka đi đến các Tỷ-kheo Trưởng lão; sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo Trưởng lão:
Atha kho āyasmā dāsako yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū etadavoca:

“Tỷ-kheo Khemaka, thưa chư Hiền, đã nói như sau: ‘Thưa Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
“khemako, āvuso, bhikkhu evamāha: ‘pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, này Hiền giả, tôi không quán cái gì là tự ngã hay ngã sở cả’!”
viññāṇupādānakkhandho. Imesu khvāhaṃ, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu na kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassāmī’”ti.

“Hãy đến đây, Hiền giả Dāsaka! Hãy đi đến Tỷ-kheo Khemaka; sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Khemaka như sau:
“Ehi tvaṃ, āvuso dāsaka, yena khemako bhikkhu tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā khemakaṃ bhikkhuṃ evaṃ vadehi:

‘Các vị Trưởng lão, này Hiền giả Khemaka, nói với Hiền giả như sau: Hiền giả Khemaka, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
‘therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu—pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, nếu Tôn giả Khemaka không quán cái gì là tự ngã hay ngã sở cả, thời Tôn giả Khemaka là vị A-la-hán, các lậu hoặc đã được đoạn tận’.”
viññāṇupādānakkhandho. No ce kirāyasmā khemako imesu pañcasu upādānakkhandhesu kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassati. Tenahāyasmā khemako arahaṃ khīṇāsavo’”ti.

“Thưa vâng, chư Hiền giả”. Tôn giả Dāsaka vâng đáp các Tỷ-kheo Trưởng lão, đi đến Tôn giả Khemaka...
“Evamāvuso”ti kho āyasmā dāsako therānaṃ bhikkhūnaṃ paṭissutvā yenāyasmā khemako ...pe...

Này Hiền giả Khemaka, các bậc Tỷ-kheo Trưởng lão nói với Hiền giả như sau: “Thưa Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu: “pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Nếu Tôn giả Khemaka, trong năm thủ uẩn này, không quán cái nào là tự ngã hay ngã sở, thời Tôn giả Khemaka là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc”.
viññāṇupādānakkhandho; no ce kirāyasmā khemako imesu pañcasu upādānakkhandhesu kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassati, tenahāyasmā khemako arahaṃ khīṇāsavo”ti.

“Thưa Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
“Pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, này Hiền giả, tôi không quán cái gì là tự ngã hay ngã sở cả. Nhưng tôi không phải là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc. Và thưa Hiền giả, trong năm thủ uẩn này, dầu cho tôi có chứng được: ‘Tôi là’, tuy vậy tôi cũng không quán: ‘Cái này là tôi’.”
viññāṇupādānakkhandho. Imesu khvāhaṃ, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu na kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassāmi, na camhi arahaṃ khīṇāsavo; api ca me, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu ‘asmī’ti adhigataṃ, ‘ayamahamasmī’ti na ca samanupassāmī”ti.

Rồi Tôn giả Dāsaka đi đến Tỷ-kheo Trưởng lão ... nói với các Tỷ-kheo Trưởng lão:
Atha kho āyasmā dāsako yena therā bhikkhū ...pe... there bhikkhū etadavoca:

“Tỷ-kheo Khemaka, thưa chư Hiền, đã nói như sau: Thưa Hiền giả, Thế Tôn có nói đến năm thủ uẩn này, tức là sắc thủ uẩn...
“khemako, āvuso, bhikkhu evamāha—pañcime, āvuso, upādānakkhandhā vuttā bhagavatā, seyyathidaṃ—rūpupādānakkhandho ...pe...

thức thủ uẩn. Trong năm thủ uẩn này, thưa Hiền giả, tôi không quán cái gì là ngã hay là ngã sở. Tuy vậy, tôi không phải là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc. Và thưa Hiền giả, trong năm thủ uẩn, dầu cho tôi chứng được: ‘Tôi là’, tuy vậy tôi cũng không quán: ‘Cái này là tôi’.”
viññāṇupādānakkhandho. Imesu khvāhaṃ, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu na kiñci attaṃ vā attaniyaṃ vā samanupassāmi, na camhi arahaṃ khīṇāsavo; api ca me, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu ‘asmī’ti adhigataṃ, ‘ayamahamasmī’ti na ca samanupassāmī”ti.

“Hãy đến đây, Hiền giả Dāsaka! Hãy đi đến Tỷ-kheo Khemaka; sau khi đến, hãy nói với Tỷ-kheo Khemaka:
“Ehi tvaṃ, āvuso dāsaka, yena khemako bhikkhu tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā khemakaṃ bhikkhuṃ evaṃ vadehi:

‘Thưa Hiền giả Khemaka, các Tỷ-kheo Trưởng lão nói với Hiền giả như sau: này Hiền giả Khemaka, cái mà Hiền giả nói: tôi là, các Hiền giả nói tôi là, là cái gì?
‘therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu—yametaṃ, āvuso khemaka, asmīti vadesi, kimetaṃ asmīti vadesi?

Hiền giả nói: tôi là sắc, Hiền giả nói: tôi là khác sắc, thọ ... tưởng ... hành ...; Hiền giả nói: tôi là thức; Hiền giả nói: tôi là khác thức.
Rūpaṃ asmīti vadesi, aññatra rūpā asmīti vadesi, vedanaṃ ... saññaṃ ... saṅkhāre ... viññāṇaṃ asmīti vadesi, aññatra viññāṇā asmīti vadesi.

Này Hiền giả Khemaka, cái mà Hiền giả nói: tôi là, các Hiền giả nói: tôi là, là cái gì’?”
Yametaṃ, āvuso khemaka, asmīti vadesi. Kimetaṃ asmīti vadesī’”ti?

“Thưa vâng”. Tôn giả Dāsaka vâng đáp các Tỷ-kheo Trưởng lão, đi đến Tôn giả Khemaka...
“Evamāvuso”ti kho āyasmā dāsako therānaṃ bhikkhūnaṃ paṭissutvā yenāyasmā khemako tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ khemakaṃ etadavoca—therā taṃ, āvuso khemaka, evamāhaṃsu: “yametaṃ, āvuso khemaka, ‘asmī’ti vadesi, kimetaṃ ‘asmī’ti vadesi? Rūpaṃ ‘asmī’ti vadesi aññatra rūpā ‘asmī’ti vadesi? Vedanaṃ ... saññaṃ ... saṅkhāre ... viññāṇaṃ ‘asmī’ti vadesi aññatra viññāṇā ‘asmī’ti vadesi? Yametaṃ, āvuso khemaka, ‘asmī’ti vadesi, kimetaṃ ‘asmī’ti vadesī”ti?

“Thôi vừa rồi, Hiền giả Dāsaka chạy qua, chạy lại như thế này để làm gì? Hãy đem gậy lại đây! Ta sẽ đi đến các Tỷ-kheo Trưởng lão!”
“Alaṃ, āvuso dāsaka, kiṃ imāya sandhāvanikāya. Āharāvuso, daṇḍaṃ; ahameva yena therā bhikkhū tenupasaṅkamissāmī”ti.

Rồi Tôn giả Khemaka chống gậy đi đến các Tỷ-kheo Trưởng lão; sau khi đến, nói lên với các Tỷ-kheo Trưởng lão những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā khemako daṇḍamolubbha yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā therehi bhikkhūhi saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Các Tỷ-kheo Trưởng lão nói với Tôn giả Khemaka đang ngồi một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ khemakaṃ therā bhikkhū etadavocuṃ:

“Này Hiền giả Khemaka, cái mà Hiền giả nói: ‘Tôi là’, cái mà Hiền giả nói: ‘Tôi là, là cái gì?’ Hiền giả nói: ‘Tôi là sắc’; Hiền giả nói: ‘Tôi là khác sắc’.
“yametaṃ, āvuso khemaka, ‘asmī’ti vadesi, kimetaṃ ‘asmī’ti vadesi? Rūpaṃ ‘asmī’ti vadesi, aññatra rūpā ‘asmī’ti vadesi?

là thọ... là tưởng... là các hành ...; Hiền giả nói: ‘Tôi là thức’; Hiền giả nói: ‘Tôi là khác thức?’; Này Hiền giả Khemaka, cái mà Hiền giả nói: ‘Tôi là’, cái mà Hiền giả nói ‘Tôi là’, là cái gì?”
Vedanaṃ ... saññaṃ ... saṅkhāre ... viññāṇaṃ ‘asmī’ti vadesi, aññatra viññāṇā ‘asmī’ti vadesi? Yametaṃ, āvuso khemaka, ‘asmī’ti vadesi, kimetaṃ ‘asmī’ti vadesī”ti?

“Thưa chư Hiền, tôi không nói: ‘Tôi là sắc’. Tôi không nói: ‘Tôi là khác sắc’.
“Na khvāhaṃ, āvuso, rūpaṃ ‘asmī’ti vadāmi; napi aññatra rūpā ‘asmī’ti vadāmi.

không nói là thọ... không nói là tưởng... không nói là các hành... Tôi không nói: ‘Tôi là thức’. Tôi cũng không nói: ‘Tôi là khác thức’.
Na vedanaṃ ... na saññaṃ ... na saṅkhāre ... na viññāṇaṃ ‘asmī’ti vadāmi; napi aññatra viññāṇā ‘asmī’ti vadāmi.

Dầu rằng, này các Hiền giả, Tôi có chứng được (tư tưởng): ‘Tôi là’, nhưng tôi không có quán: ‘Cái này là tôi’.
Api ca me, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu ‘asmī’ti adhigataṃ ‘ayamahamasmī’ti na ca samanupassāmi.

Ví như, này chư Hiền, hương thơm của hoa sen xanh, hay hoa sen hồng, hay hoa trắng. Nếu có người nói: ‘Hương thuộc về lá hay thuộc về sắc, hay thuộc về nhụy hoa’, nói như vậy có nói đúng không?”
Seyyathāpi, āvuso, uppalassa vā padumassa vā puṇḍarīkassa vā gandho. Yo nu kho evaṃ vadeyya: ‘pattassa gandho’ti vā ‘vaṇṇassa gandho’ti vā ‘kiñjakkhassa gandho’ti vā sammā nu kho so vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, này Hiền giả”.
“No hetaṃ, āvuso”.

“Vậy chư Hiền, trả lời như thế nào là trả lời một cách đúng đắn?”
“Yathā kathaṃ, panāvuso, sammā byākaramāno byākareyyā”ti?

“Chư Hiền, ‘hương là của hoa’. Trả lời như vậy là trả lời một cách đúng đắn”.
“‘Pupphassa gandho’ti kho, āvuso, sammā byākaramāno byākareyyā”ti.

“Cũng vậy, này chư Hiền, tôi không nói: ‘Tôi là sắc’; tôi không nói: ‘Tôi là khác sắc’.
“Evameva khvāhaṃ, āvuso, na rūpaṃ ‘asmī’ti vadāmi, napi aññatra rūpā ‘asmī’ti vadāmi.

không nói là thọ ... không nói là tưởng ... không nói là hành ... Tôi không nói: ‘Tôi là thức’. Tôi không nói: ‘Tôi là khác thức’.
Na vedanaṃ ... na saññaṃ ... na saṅkhāre ... na viññāṇaṃ ‘asmī’ti vadāmi, napi aññatra viññāṇā ‘asmī’ti vadāmi.

Nhưng này chư Hiền, dầu rằng đối với năm thủ uẩn của tôi được có này, tôi không có quán: ‘Cái này là tôi’.
Api ca me, āvuso, pañcasu upādānakkhandhesu ‘asmī’ti adhigataṃ ‘ayamahamasmī’ti na ca samanupassāmi.

Dầu cho đối với vị Thánh đệ tử, này chư Hiền, năm hạ phần kiết sử đã được đoạn tận, nhưng vị ấy còn nghĩ:
Kiñcāpi, āvuso, ariyasāvakassa pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni pahīnāni bhavanti, atha khvassa hoti:

‘Ðối với năm thủ uẩn, vẫn còn dư tàn tế nhị. Dư tàn kiêu mạn tôi là, dư tàn dục tôi là, dư tàn tùy miên tôi là chưa được vị ấy đoạn trừ. Vị ấy sau một thời gian, sống quán sự sanh diệt trong năm thủ uẩn:
‘yo ca pañcasu upādānakkhandhesu anusahagato asmīti māno, asmīti chando, asmīti anusayo asamūhato. So aparena samayena pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassī viharati—

Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt.
iti rūpaṃ, iti rūpassa samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo;

Ðây là thọ... Ðây là tưởng... Ðây là các hành... Ðây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt’.
iti vedanā ... iti saññā ... iti saṅkhārā ... iti viññāṇaṃ, iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamo’ti.

Vì rằng vị ấy sống, quán sự sanh diệt trong năm thủ uẩn này, các dư tàn ngã mạn ‘Tôi là’, các dư tàn ngã dục ‘Tôi là’, các dư tàn ngã tùy miên ‘Tôi là’, mà vị ấy chưa được đoạn trừ, nay đi đến đoạn tận.
Tassimesu pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassino viharato yopissa hoti pañcasu upādānakkhandhesu anusahagato ‘asmī’ti, māno ‘asmī’ti, chando ‘asmī’ti anusayo asamūhato, sopi samugghātaṃ gacchati.

Này chư Hiền, ví như một tấm vải nhớp nhúa dính bụi, những người chủ giao nó cho một người thợ giặt. Người thợ giặt sau khi nhồi nó, đập nó trong nước muối, hay trong nước tô đã, trong nước phân bò rồi giặt sạch nó trong nước trong. Dầu cho tấm vải ấy nay được sạch sẽ, trong trắng, nhưng nó vẫn còn dư tàn mùi muối hay mùi tô đã, hay mùi phân bò. Người thợ giặt giao lại tấm vải cho những người chủ. Những người chủ đem bỏ nó vào trong một cái hòm có ướp hương thơm. Như vậy, cái dư tàn mùi muối hay mùi tô đã hay mùi phân bò chưa được đoạn tận, nay được đoạn trừ.
Seyyathāpi, āvuso, vatthaṃ saṅkiliṭṭhaṃ malaggahitaṃ. Tamenaṃ sāmikā rajakassa anupadajjuṃ. Tamenaṃ rajako ūse vā khāre vā gomaye vā sammadditvā acche udake vikkhāleti. Kiñcāpi taṃ hoti vatthaṃ parisuddhaṃ pariyodātaṃ, atha khvassa hoti yeva anusahagato ūsagandho vā khāragandho vā gomayagandho vā asamūhato. Tamenaṃ rajako sāmikānaṃ deti. Tamenaṃ sāmikā gandhaparibhāvite karaṇḍake nikkhipanti. Yopissa hoti anusahagato ūsagandho vā khāragandho vā gomayagandho vā asamūhato, sopi samugghātaṃ gacchati.

Cũng vậy, này chư Hiền, dầu cho vị Thánh đệ tử đã đoạn tận năm hạ phần kiết sử, nhưng với vị ấy, cái dư tàn trong năm thủ uẩn, dư tàn ngã mạn ‘Tôi là’, dư tàn ngã dục ‘Tôi là’, dư tàn ngã tùy miên: ‘Tôi là’ chưa được đoạn trừ.
Evameva kho, āvuso, kiñcāpi ariyasāvakassa pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni pahīnāni bhavanti, atha khvassa hoti yeva pañcasu upādānakkhandhesu anusahagato ‘asmī’ti, māno ‘asmī’ti, chando ‘asmī’ti anusayo asamūhato.

Vị ấy sau một thời gian, sống tùy quán sự sanh diệt trong năm thủ uẩn. ‘Ðây là sắc, đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt.
So aparena samayena pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassī viharati. ‘Iti rūpaṃ, iti rūpassa samudayo, iti rūpassa atthaṅgamo;

Ðây là thọ... đây là tưởng... đây là các hành... đây là thức, đây là thức tập khởi, đây là thức đoạn diệt’.
iti vedanā ... iti saññā ... iti saṅkhārā ... iti viññāṇaṃ, iti viññāṇassa samudayo, iti viññāṇassa atthaṅgamo’ti.

Vì rằng vị ấy sống tùy quán sự sanh diệt trong năm thủ uẩn này nên các dư tàn trong năm thủ uẩn này, ngã mạn ‘Tôi là’, ngã dục ‘tôi là’, ngã tùy miên ‘Tôi là’ chưa được đoạn tận nay đi đến đoạn trừ”.
Tassa imesu pañcasu upādānakkhandhesu udayabbayānupassino viharato yopissa hoti pañcasu upādānakkhandhesu anusahagato ‘asmī’ti, māno ‘asmī’ti, chando ‘asmī’ti anusayo asamūhato, sopi samugghātaṃ gacchatī”ti.

Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo Trưởng lão nói với Tôn giả Khemaka:
Evaṃ vutte, therā bhikkhū āyasmantaṃ khemakaṃ etadavocuṃ:

“Không phải chúng tôi vì muốn phiền nhiễu Tôn giả Khemaka mà chúng tôi hỏi. Nhưng vì chúng tôi nghĩ rằng: Tôn giả Khemaka có thể giải đáp, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai triển, phân tích, hiển lộ một cách rộng rãi giáo lý của Thế Tôn.
“na kho mayaṃ āyasmantaṃ khemakaṃ vihesāpekhā pucchimha, api cāyasmā khemako pahosi tassa bhagavato sāsanaṃ vitthārena ācikkhituṃ desetuṃ paññāpetuṃ paṭṭhapetuṃ vivarituṃ vibhajituṃ uttānīkātuṃ.

Và rồi Tôn giả Khemaka đã giải đáp, thuyết giảng, trình bày, xác chứng, khai triển, phân tích, hiển lộ một cách rộng rãi giáo lý của Thế Tôn”.
Tayidaṃ āyasmatā khemakena tassa bhagavato sāsanaṃ vitthārena ācikkhitaṃ desitaṃ paññāpitaṃ paṭṭhapitaṃ vivaritaṃ vibhajitaṃ uttānīkatan”ti.

Tôn giả Khemaka thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo Trưởng lão hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Khemaka giảng.
Idamavoca āyasmā khemako. Attamanā therā bhikkhū āyasmato khemakassa bhāsitaṃ abhinanduṃ.

Trong khi lời dạy này được nói lên, khoảng sáu mươi Tỷ-kheo được tâm giải thoát khỏi các lậu hoặc, kể cả Tôn giả Khemaka.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne saṭṭhimattānaṃ therānaṃ bhikkhūnaṃ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsu, āyasmato khemakassa cāti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt