Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 22.90

Tương Ưng Bộ 22.90
Saṃyutta Nikāya 22.90

Phẩm Trưởng Lão
9. Theravagga

Channa
Channasutta

Một thời, nhiều Tỷ-kheo Trưởng lão trú ở Bārānasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển.
Ekaṃ samayaṃ sambahulā therā bhikkhū bārāṇasiyaṃ viharanti isipatane migadāye.

Rồi Tôn giả Channa, vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, cầm chìa khóa, đi từ tịnh xá này đến tịnh xá khác và nói với các Tỷ-kheo Trưởng lão:
Atha kho āyasmā channo sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito avāpuraṇaṃ ādāya vihārena vihāraṃ upasaṅkamitvā there bhikkhū etadavoca:

“Chư Tôn giả Trưởng lão, hãy giáo giới cho tôi! Chư Tôn giả Trưởng lão, hãy giảng dạy cho tôi! Chư Tôn giả, hãy thuyết pháp cho tôi để tôi có thể thấy được pháp”.
“ovadantu maṃ āyasmanto therā, anusāsantu maṃ āyasmanto therā, karontu me āyasmanto therā dhammiṃ kathaṃ, yathāhaṃ dhammaṃ passeyyan”ti.

Ðược nói vậy, các vị Tỷ-kheo Trưởng lão nói với Tôn giả Channa:
Evaṃ vutte, therā bhikkhū āyasmantaṃ channaṃ etadavocuṃ:

“Sắc, này Hiền giả Channa, là vô thường; thọ là vô thường ; tưởng là vô thường; các hành là vô thường; thức là vô thường. Sắc là vô ngã;
“rūpaṃ kho, āvuso channa, aniccaṃ; vedanā aniccā; saññā aniccā; saṅkhārā aniccā; viññāṇaṃ aniccaṃ. Rūpaṃ anattā;

thọ... tưởng... các hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường; tất cả các pháp là vô ngã”.
vedanā ... saññā ... saṅkhārā ... viññāṇaṃ anattā. Sabbe saṅkhārā aniccā; sabbe dhammā anattā”ti.

Rồi Tôn giả Channa suy nghĩ như sau:
Atha kho āyasmato channassa etadahosi:

“Ta cũng suy nghĩ như vầy: ‘Sắc là vô thường; thọ... tưởng... các hành... thức là vô thường. Sắc là vô ngã; thọ... tưởng... các hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường; tất cả pháp là vô ngã.’
“mayhampi kho etaṃ evaṃ hoti: ‘rūpaṃ aniccaṃ, vedanā ... saññā ... saṅkhārā ... viññāṇaṃ aniccaṃ; rūpaṃ anattā, vedanā ... saññā ... saṅkhārā ... viññāṇaṃ anattā. Sabbe saṅkhārā aniccā, sabbe dhammā anattā’ti.

Nhưng tâm của ta không hướng tiến đến sự chỉ tịnh tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn, không có thoải mái, không có an trú, không có hướng về. Do sự tham luyến, chấp thủ khởi lên. Tâm ý trở lui lại tư tưởng:
Atha ca pana me sabbasaṅkhārasamathe sabbūpadhipaṭinissagge taṇhākkhaye virāge nirodhe nibbāne cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati nādhimuccati. Paritassanā upādānaṃ uppajjati; paccudāvattati mānasaṃ:

‘Có phải tự ngã của ta sinh hoạt?’ Như vậy thời ta không thể thấy pháp. Ai có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp?”
‘atha ko carahi me attā’ti? Na kho panevaṃ dhammaṃ passato hoti. Ko nu kho me tathā dhammaṃ deseyya yathāhaṃ dhammaṃ passeyyan”ti.

Rồi Tôn giả Channa suy nghĩ:
Atha kho āyasmato channassa etadahosi:

“Ðây là Tôn giả Ānanda, hiện trú ở Kosambi, tại vườn Ghosita, được bậc Ðạo Sư tán thán và các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Ānanda có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp. Và cho đến như vậy, ta có lòng tin tưởng đối với Tôn giả Ānanda. Vậy ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda!”
“ayaṃ kho āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ, pahoti ca me āyasmā ānando tathā dhammaṃ desetuṃ yathāhaṃ dhammaṃ passeyyaṃ; atthi ca me āyasmante ānande tāvatikā vissaṭṭhi. Yannūnāhaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyan”ti.

Rồi Tôn giả Channa, sau khi dọn dẹp chỗ nằm của mình, cầm y bát đi đến Kosambi, vườn Ghosita, chỗ Tôn giả Ānanda ở, sau khi đến, nói với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Channa nói với Tôn giả Ānanda:
Atha kho āyasmā channo senāsanaṃ saṃsāmetvā pattacīvaramādāya yena kosambī ghositārāmo yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodi ...pe... ekamantaṃ nisinno kho āyasmā channo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Một thời, này Hiền giả Ānanda, tôi ở Bàrànasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi vào buổi chiều, này Hiền giả, tôi từ chỗ tịnh cư đứng dậy, cầm chiếc chìa khóa, đi từ tịnh xá này đến tịnh xá khác, sau khi đến nói với các Tỷ-kheo Trưởng lão:
“Ekamidāhaṃ, āvuso ānanda, samayaṃ bārāṇasiyaṃ viharāmi isipatane migadāye. Atha khvāhaṃ, āvuso, sāyanhasamayaṃ paṭisallānā vuṭṭhito avāpuraṇaṃ ādāya vihārena vihāraṃ upasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā there bhikkhū etadavocaṃ:

‘Chư Tôn giả Trưởng lão, hãy giáo giới cho tôi! Chư Tôn giả Trưởng lão, hãy giảng dạy cho tôi! Chư Tôn giả Trưởng lão, hãy thuyết pháp cho tôi để tôi có thể thấy pháp’.
‘ovadantu maṃ āyasmanto therā, anusāsantu maṃ āyasmanto therā, karontu me āyasmanto therā dhammiṃ kathaṃ yathāhaṃ dhammaṃ passeyyan’ti.

Ðược nghe nói vậy, này Hiền giả, các Tỷ-kheo Trưởng lão nói với tôi:
Evaṃ vutte, maṃ, āvuso, therā bhikkhū etadavocuṃ:

‘Sắc, này Hiền giả Channa, là vô thường; thọ ... tưởng ... các hành ... thức là vô thường. Sắc là vô ngã; thọ ... tưởng ... các hành ... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường; tất cả các pháp là vô ngã’.
‘rūpaṃ kho, āvuso channa, aniccaṃ; vedanā ... saññā ... saṅkhārā ... viññāṇaṃ aniccaṃ; rūpaṃ anattā ...pe... viññāṇaṃ anattā. Sabbe saṅkhārā aniccā, sabbe dhammā anattā’ti.

Về vấn đề ấy, này Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi:

‘Ta cũng suy nghĩ như vầy: sắc là vô thường... thức là vô thường. Sắc là vô ngã, thọ... tưởng... các hành... thức là vô ngã. Tất cả các hành là vô thường; tất cả các pháp là vô ngã’.
‘mayhampi kho etaṃ evaṃ hoti—rūpaṃ aniccaṃ ...pe... viññāṇaṃ aniccaṃ, rūpaṃ anattā, vedanā ... saññā ... saṅkhārā ... viññāṇaṃ anattā. Sabbe saṅkhārā aniccā, sabbe dhammā anattā’ti.

Nhưng tâm của ta không hướng tiến đến sự chỉ tịnh tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự đoạn diệt khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn, không có thoải mái, không có an trú, không có hướng về. Do sự tham luyến, chấp thủ khởi lên. Tâm ý trở lui lại tư tưởng:
Atha ca pana me sabbasaṅkhārasamathe sabbūpadhipaṭinissagge taṇhākkhaye virāge nirodhe nibbāne cittaṃ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati nādhimuccati. Paritassanā upādānaṃ uppajjati; paccudāvattati mānasaṃ:

‘Có phải tự ngã của ta sinh hoạt?’
‘atha ko carahi me attā’ti?

Như vậy thời ta không thể thấy pháp. Ai có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp?
Na kho panevaṃ dhammaṃ passato hoti. Ko nu kho me tathā dhammaṃ deseyya yathāhaṃ dhammaṃ passeyyanti.

Rồi về vấn đề này, này Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, āvuso, etadahosi:

‘Ðây là Tôn giả Ānanda, hiện trú ở Kosambi, tại vườn Ghosita, được bậc Ðạo Sư tán thán và các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng. Tôn giả Ānanda có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể thấy pháp! Và cho đến như vậy, ta có lòng tin tưởng đối với Tôn giả Ānanda! Vậy ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda’.
‘ayaṃ kho āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme satthu ceva saṃvaṇṇito sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ, pahoti ca me āyasmā ānando tathā dhammaṃ desetuṃ yathāhaṃ dhammaṃ passeyyaṃ. Atthi ca me āyasmante ānande tāvatikā vissaṭṭhi. Yannūnāhaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyan’ti.

Tôn giả Ānanda hãy giáo giới cho tôi! Tôn giả Ānanda hãy giảng dạy cho tôi! Tôn giả Ānanda hãy thuyết pháp cho tôi để tôi có thể thấy pháp”.
Ovadatu maṃ, āyasmā ānando; anusāsatu maṃ, āyasmā ānando; karotu me, āyasmā ānando dhammiṃ kathaṃ yathāhaṃ dhammaṃ passeyyan”ti.

“Cho đến như vậy, thật sự tôi rất hoan hỷ đối với Tôn giả Channa. Tôn giả Channa đã làm cho sự việc rõ ràng. Tôn giả Channa đã phá vỡ chướng ngại. Hãy lóng tai, này Hiền giả Channa! Hiền giả có thể hiểu được Chánh pháp”.
“Ettakenapi mayaṃ āyasmato channassa attamanā api nāma taṃ āyasmā channo āvi akāsi khīlaṃ chindi. Odahāvuso channa, sotaṃ; bhabbosi dhammaṃ viññātun”ti.

Ngay lúc ấy, Tôn giả Channa khởi lên hoan hỷ, hân hoan thù thắng khi nghe đến: “Ta có thể hiểu được pháp”.
Atha kho āyasmato channassa tāvatakeneva uḷāraṃ pītipāmojjaṃ uppajji: “bhabbo kirasmi dhammaṃ viññātun”ti.

“Này Hiền giả Channa, tôi tận mặt nghe Thế Tôn, tận mặt nhận lãnh từ Thế Tôn lời giáo giới này cho Kaccānaghotta:
“Sammukhā metaṃ, āvuso channa, bhagavato sutaṃ, sammukhā paṭiggahitaṃ kaccānagottaṃ bhikkhuṃ ovadantassa—

Thế giới này dựa trên hai (quan điểm), này Kaccāna, hiện hữu và không hiện hữu.
dvayanissito khvāyaṃ, kaccāna, loko yebhuyyena atthitañceva natthitañca.

Ai thấy như thật với chánh trí tuệ sự tập khởi của thế giới, thì không chấp nhận là thế giới không hiện hữu! Nhưng này Kaccāna, ai thấy như thật với chánh trí tuệ sự đoạn diệt của thế giới, thì cũng không chấp nhận là thế giới có hiện hữu.
Lokasamudayaṃ kho, kaccāna, yathābhūtaṃ sammappaññāya passato yā loke natthitā, sā na hoti. Lokanirodhaṃ kho, kaccāna, yathābhūtaṃ sammappaññāya passato yā loke atthitā, sā na hoti.

Thế giới này phần lớn, này Kaccāna, là chấp thủ các phương tiện và bị trói buộc bởi thành kiến. Với ai không đi đến, không chấp thủ, không an trú vào chấp thủ các phương tiện, tâm không an trú vào thiên kiến tùy miên, vị ấy không nói: ‘Ðây là tự ngã của tôi’. Với ai nghĩ rằng: cái gì khởi lên là đau khổ, cái gì diệt là đau khổ, vị ấy không có phân vân, nghi hoặc. Trí ở đây không mượn nhờ người khác.
Upayupādānābhinivesavinibandho khvāyaṃ, kaccāna, loko yebhuyyena taṃ cāyaṃ upayupādānaṃ cetaso adhiṭṭhānābhinivesānusayaṃ na upeti na upādiyati nādhiṭṭhāti ‘attā me’ti. Dukkhameva uppajjamānaṃ uppajjati, dukkhaṃ nirujjhamānaṃ nirujjhatīti na kaṅkhati na vicikicchati. Aparappaccayā ñāṇamevassa ettha hoti.

Cho đến như vậy, này Kaccāna, là chánh trí.
Ettāvatā kho, kaccāna, sammādiṭṭhi hoti.

Tất cả đều có, này Kaccāna, là một cực đoan.
Sabbamatthīti kho, kaccāna, ayameko anto.

Tất cả đều không có, là một cực đoan.
Sabbaṃ natthīti ayaṃ dutiyo anto.

Không chấp nhận hai cực đoan ấy, này Kaccāna, Như Lai thuyết pháp một cách trung đạo.
Ete te, kaccāna, ubho ante anupagamma majjhena tathāgato dhammaṃ deseti—

Do duyên vô minh, nên hành khởi. Do duyên hành, nên thức khởi ... Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
avijjāpaccayā saṅkhārā; saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti.

Do sự ly tham, đoạn diệt vô minh không có dư tàn nên các hành diệt ... Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này”.
Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho ...pe... evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī”ti.

“Như vậy, này Hiền giả Ānanda, là điều sẽ đến với các bậc Tôn giả nào có được những đồng Phạm hạnh như vậy, những vị có lòng từ mẫn, những vị muốn sự lợi ích, những vị giáo giới, những vị giảng dạy, nghe được lời thuyết pháp này từ Tôn giả Ānanda, tôi được an trú vững chắc trong Chánh pháp”.
“Evametaṃ, āvuso ānanda, hoti yesaṃ āyasmantānaṃ tādisā sabrahmacārayo anukampakā atthakāmā ovādakā anusāsakā. Idañca pana me āyasmato ānandassa dhammadesanaṃ sutvā dhammo abhisamito”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt