Tương Ưng Bộ 23.11
Saṃyutta Nikāya 23.11
Phẩm Thứ Hai
2. Dutiyamāravagga
Māra
Mārasutta
Nhân duyên ở Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.
Ngồi xuống một bên, Tôn giả Rādha bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā rādho bhagavantaṃ etadavoca:
“‘Māra, Māra’, bạch Thế Tôn, như vậy được gọi đến. Thế nào là Māra, bạch Thế Tôn?”
“‘māro, māro’ti, bhante, vuccati. Katamo nu kho, bhante, māro”ti?
“Sắc, này Rādha, là Māra. Thọ là Māra. Tưởng là Māra. Hành là Māra. Thức là Māra.
“Rūpaṃ kho, rādha, māro, vedanā māro, saññā māro, saṅkhārā māro, viññāṇaṃ māro.
Do thấy vậy, này Rādha, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với các hành, nhàm chán đối thức. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: Ta đã được giải thoát.
Evaṃ passaṃ, rādha, sutavā ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati. Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt