Tương Ưng Bộ 35.103
Saṃyutta Nikāya 35.103
10. Phẩm Từ Bỏ
10. Saḷavagga
Uddaka
Udakasutta
“Uddaka Rāmaputta, này các Tỷ-kheo, có nói như sau:
“Udako sudaṃ, bhikkhave, rāmaputto evaṃ vācaṃ bhāsati:
“Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào”.
‘idaṃ jātu vedagū,
idaṃ jātu sabbajī,
idaṃ jātu apalikhataṃ
gaṇḍamūlaṃ palikhaṇin’ti.
Này các Tỷ-kheo, Uddaka Rāmaputta không phải bậc minh trí, lại tự nói: “Ta là bậc minh trí”; không chiến thắng tất cả, lại nói: “Ta chiến thắng tất cả”; không đào lên khổ căn, lại nói: “Ðã đào lên khổ căn”.
Taṃ kho panetaṃ, bhikkhave, udako rāmaputto avedagūyeva samāno ‘vedagūsmī’ti bhāsati, asabbajīyeva samāno ‘sabbajīsmī’ti bhāsati, apalikhataṃyeva gaṇḍamūlaṃ palikhataṃ me ‘gaṇḍamūlan’ti bhāsati.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một cách chân chánh, có thể nói như sau:
Idha kho taṃ, bhikkhave, bhikkhu sammā vadamāno vadeyya:
“Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào”.
‘idaṃ jātu vedagū,
idaṃ jātu sabbajī,
idaṃ jātu apalikhataṃ
gaṇḍamūlaṃ palikhaṇin’ti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo minh trí?
Kathañca, bhikkhave, vedagū hoti?
Này các Tỷ-kheo, khi nào một Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly; như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo minh trí.
Yato kho, bhikkhave, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ pajānāti; evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu vedagū hoti.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhu sabbajī hoti?
Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đối với sáu xúc xứ, sau khi như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly, được giải thoát không có chấp thủ; như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chiến thắng tất cả.
Yato kho, bhikkhave, bhikkhu channaṃ phassāyatanānaṃ samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṃ viditvā anupādāvimutto hoti; evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu sabbajī hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn trước kia chưa được đào?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhuno apalikhataṃ gaṇḍamūlaṃ palikhataṃ hoti?
Mụt nhọt, này các Tỷ-kheo, là một danh từ chỉ cho cái thân do bốn đại tạo thành này, sanh ra từ cha mẹ, do cơm cháo nuôi dưỡng, tự tánh là vô thường, biến hoại, mai một, hủy hoại, hủy diệt.
Gaṇḍoti kho, bhikkhave, imassetaṃ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṃ mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa aniccucchādanaparimaddanabhedanaviddhaṃsanadhammassa.
Gốc rễ của mụt nhọt, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với khát ái.
Gaṇḍamūlanti kho, bhikkhave, taṇhāyetaṃ adhivacanaṃ.
Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo đoạn tận khát ái, chặt đứt đến gốc rễ, làm cho như thân cây Ta-la, làm cho không thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai;
Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno taṇhā pahīnā hoti ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā;
như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo đã đào lên khổ căn từ trước chưa được đào lên.
evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhuno apalikhataṃ gaṇḍamūlaṃ palikhataṃ hoti.
Này các Tỷ-kheo, chính là Uddaka Rāmaputta đã nói lên lời nói như sau:
Udako sudaṃ, bhikkhave, rāmaputto evaṃ vācaṃ bhāsati:
“Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào”.
‘idaṃ jātu vedagū,
idaṃ jātu sabbajī,
idaṃ jātu apalikhataṃ
gaṇḍamūlaṃ palikhaṇin’ti.
Này các Tỷ-kheo, Uddaka không phải là bậc minh trí, lại tự nói: ‘Ta là bậc minh trí’; không chiến thắng tất cả, lại nói: ‘Ta chiến thắng tất cả’; không đào lên khổ căn, lại nói: ‘Ðã đào lên khổ căn’.
Taṃ kho panetaṃ, bhikkhave, udako rāmaputto avedagūyeva samāno ‘vedagūsmī’ti bhāsati, asabbajīyeva samāno ‘sabbajīsmī’ti bhāsati; apalikhataṃyeva gaṇḍamūlaṃ ‘palikhataṃ me gaṇḍamūlan’ti bhāsati.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo nói một cách chân chánh, có thể nói như sau:
Idha kho taṃ, bhikkhave, bhikkhu sammā vadamāno vadeyya:
“Ta là bậc minh trí,
Ta chiến thắng tất cả,
Ta đào lên khổ căn,
Trước kia chưa từng đào”.
‘idaṃ jātu vedagū,
idaṃ jātu sabbajī,
idaṃ jātu apalikhataṃ
gaṇḍamūlaṃ palikhaṇin’ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt