Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.117

Tương Ưng Bộ 35.117
Saṃyutta Nikāya 35.117

12. Phẩm Thế Giới Dục Công Ðức
12. Lokakāmaguṇavagga

Thế Giới Dục Công Ðức (2)
Kāmaguṇasutta

“Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta chưa giác ngộ, chưa thành Chánh đẳng Chánh giác, còn là Bồ-tát, Ta khởi lên ý nghĩ như sau:
“Pubbeva me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi:

‘Năm dục công đức mà tâm Ta trước kia cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại; ở đây, tâm Ta đi đến cuồng nhiệt khi chúng có mặt hiện tại, và trở thành giảm thiểu khi chúng chưa đến, còn ở vị lai’.
‘yeme pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra me cittaṃ bahulaṃ gacchamānaṃ gaccheyya paccuppannesu vā appaṃ vā anāgatesu’.

Rồi, này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:

‘Năm dục công đức mà tâm Ta trước kia cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại. Ở đây, vì lợi ích cho chính Ta, hãy sống không phóng dật, gìn giữ tâm chánh niệm’.
‘yeme pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra me attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo’.

Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với năm dục công đức mà tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại; ở đây, tâm các Ông đi đến cuồng nhiệt khi chúng có mặt hiện tại, và trở thành giảm thiểu khi chúng chưa đến, còn ở vị lai.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhākampi ye te pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra vo cittaṃ bahulaṃ gacchamānaṃ gaccheyya paccuppannesu vā appaṃ vā anāgatesu.

Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với năm dục công đức mà tâm các Ông trước đây cảm xúc, đã thuộc quá khứ, đã đoạn diệt, đã biến hoại. Ở đây, vì lợi ích cho chính các Ông, hãy sống không phóng dật, gìn giữ tâm chánh niệm.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhākampi ye te pañca kāmaguṇā cetaso samphuṭṭhapubbā atītā niruddhā vipariṇatā, tatra vo attarūpehi appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo.

Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: “Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
Tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

chỗ nào lưỡi đoạn diệt, vị tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý được đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu. Các xứ cần phải được hiểu như vậy”.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe”ti.

Nói vậy xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
Idaṃ vatvā bhagavā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.

Rồi các Tỷ-kheo, sau khi Thế Tôn ra đi chẳng bao lâu, khởi lên ý nghĩ sau đây:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:

“Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời thuyết giảng này một cách vắn tắt ...
“idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào lưỡi đoạn diệt, vị tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu...
yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu’.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.

Ai có thể phân tích ý nghĩa lời tuyên bố một cách rộng rãi?”
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā”ti?

Rồi các Tỷ-kheo ấy lại suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṃ bhikkhūnaṃ etadahosi:

“Tôn giả Ānanda được Thế Tôn tán thán, được các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ānanda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi lời Thế Tôn tuyên bố vắn tắt này.
“ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.

Chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này”.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā”ti.

Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Ānanda:
Atha kho te bhikkhū yenāyasmā ānando tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodiṃsu.Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū āyasmantaṃ ānandaṃ etadavocuṃ:

“Thưa Hiền giả Ānanda, sau khi thuyết giảng lời vắn tắt, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá:
“Idaṃ kho no, āvuso ānanda, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào lưỡi đoạn diệt, thiệt tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu’.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.

Thưa Hiền giả, sau khi Thế Tôn đi không bao lâu, chúng tôi suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:

“Này chư Hiền, Thế Tôn sau khi nói lên lời nói vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đã đi vào tịnh xá:
“idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào lưỡi đoạn diệt, thiệt tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu”.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe”ti.

Lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?’.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?

Rồi thưa Hiền giả, chúng tôi lại suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, āvuso, amhākaṃ etadahosi:

‘Tôn giả Ānanda được Thế Tôn tán thán, được các bạn đồng Phạm hạnh có trí kính trọng, Tôn giả Ānanda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn. Chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này’.
‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ. Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ. Yannūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.

Mong Tôn giả Ānanda hãy phân tích cho”.
Vibhajatāyasmā ānando”ti.

“Này chư Hiền, ví như một người cần thiết lõi cây ...
“Seyyathāpi, āvuso, puriso sāratthiko sāragavesī sārapariyesanaṃ caramāno mahato rukkhassa ...pe...

Mong Tôn giả Ānanda phân tích cho, nếu Tôn giả không cảm thấy phiền phức”.
Vibhajatāyasmā ānando agaruṃ karitvā”ti.

“Vậy chư Hiền, hãy lắng và suy nghiệm kỹ. Tôi sẽ nói”.
“Tenahāvuso, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, Hiền giả”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ānanda.
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ.

Tôn giả Ānanda nói như sau:
Āyasmā ānando etadavoca:

Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá:
“Yaṃ kho vo, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

‘Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý được đoạn diệt, pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu’.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.

Này chư Hiền, lời Thế Tôn nói lên vắn tắt này, không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, tôi hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau.
Imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ ājānāmi.

Lời Thế Tôn nói, này chư Hiền, là thuộc về đoạn diệt sáu xứ:
Saḷāyatananirodhaṃ no etaṃ, āvuso, bhagavatā sandhāya bhāsitaṃ:

‘Do vậy, này chư Hiền, các xứ cần phải hiểu: “Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe, yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, các pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu biết”. Các xứ cần phải được hiểu như vậy’.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.

Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng vắn tắt này, không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá:
Ayaṃ kho, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: Chỗ nào mắt đoạn diệt, sắc tưởng được ly tham; các xứ cần phải được hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, các pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải hiểu biết”. Các xứ cần phải được hiểu như vậy’.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti.

Này chư Hiền, lời Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt này, ý nghĩa không được phân tích một cách rõ ràng, ý nghĩa ấy tôi hiểu một cách rõ ràng như vậy.
Imassa khvāhaṃ, āvuso, bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmi.

Nếu muốn, chư Hiền hãy đi đến Thế Tôn và hỏi về ý nghĩa này.
Ākaṅkhamānā ca pana tumhe āyasmanto bhagavantaṃyeva upasaṅkamatha; upasaṅkamitvā etamatthaṃ puccheyyātha.

Thế Tôn giải thích như thế nào, chư Hiền hãy như vậy thọ trì”.
Yathā vo bhagavā byākaroti tathā naṃ dhāreyyāthā”ti.

“Thưa vâng, Hiền giả.” Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ānanda, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paṭissutvā uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:

“Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn nói lên vắn tắt cho chúng con, không có phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, Thế Tôn đi vào tịnh xá:
“Yaṃ kho no, bhante, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

“Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu. ‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, chỗ ấy sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu ...
‘tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

chỗ nào lưỡi đoạn diệt, chỗ ấy thiệt tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu ...
yattha jivhā ca nirujjhati, rasasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, chỗ ấy pháp tưởng được ly tham, các xứ phải được hiểu’. Các xứ cần phải hiểu như vậy”. Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, chúng con suy nghĩ như sau:
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe’ti, tesaṃ no, bhante, amhākaṃ acirapakkantassa bhagavato etadahosi:

‘Này chư Hiền, sau khi nói lên lời thuyết giảng này cho chúng ta, nhưng không phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và đi vào tịnh xá:
‘idaṃ kho no, āvuso, bhagavā saṅkhittena uddesaṃ uddisitvā vitthārena atthaṃ avibhajitvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭho:

‘Do vậy, này các Tỷ-kheo, các xứ cần phải được hiểu: ‘Chỗ nào mắt đoạn diệt, chỗ ấy sắc tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu ...
“tasmātiha, bhikkhave, se āyatane veditabbe yattha cakkhu ca nirujjhati, rūpasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe ...pe...

Chỗ nào ý đoạn diệt, chỗ ấy các pháp tưởng được ly tham, các xứ cần phải được hiểu’. Các xứ cần phải hiểu như vậy”.
yattha mano ca nirujjhati, dhammasaññā ca nirujjhati, se āyatane veditabbe”ti.

Lời tuyên bố vắn tắt này của Thế Tôn, ai có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi?”.
Ko nu kho imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajeyyā’ti?

Bạch Thế Tôn, chúng con suy nghĩ như sau:
Tesaṃ no, bhante, amhākaṃ etadahosi:

‘Tôn giả Ānanda được bậc Ðạo Sư tán thán và được các bậc đồng Phạm hạnh có trí kính trọng.
‘ayaṃ kho āyasmā ānando satthu ceva saṃvaṇṇito, sambhāvito ca viññūnaṃ sabrahmacārīnaṃ.

Với lời Thế Tôn nói lên một cách vắn tắt này, nhưng không được phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi, Tôn giả Ānanda có thể phân tích ý nghĩa một cách rộng rãi.
Pahoti cāyasmā ānando imassa bhagavatā saṅkhittena uddesassa uddiṭṭhassa vitthārena atthaṃ avibhattassa vitthārena atthaṃ vibhajituṃ.

Vậy chúng ta hãy đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, hãy hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này’.
Yannūna mayaṃ yenāyasmā ānando tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipuccheyyāmā’ti.

Rồi bạch Thế Tôn, chúng con đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, chúng con hỏi Tôn giả Ānanda về ý nghĩa này.
Atha kho mayaṃ, bhante, yenāyasmā ānando tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etamatthaṃ paṭipucchimha.

Bạch Thế Tôn, Tôn giả Ānanda với những lý do này, với những câu này, với những chữ này, đã phân tích ý nghĩa”.
Tesaṃ no, bhante, āyasmatā ānandena imehi ākārehi, imehi padehi, imehi byañjanehi attho vibhatto”ti.

“Hiền trí, này các Tỷ-kheo, là Ānanda! Ðại tuệ, này các Tỷ-kheo, là Ānanda!
“Paṇḍito, bhikkhave, ānando; mahāpañño, bhikkhave, ānando.

Này các Tỷ-kheo, nếu các Ông hỏi Ta về ý nghĩa này, Ta cũng sẽ trả lời như vậy, như Ānanda đã trả lời.
Mañcepi tumhe, bhikkhave, etamatthaṃ paṭipuccheyyātha, ahampi taṃ evamevaṃ byākareyyaṃ yathā taṃ ānandena byākataṃ.

Ðây là ý nghĩa của lời nói ấy, hãy như vậy thọ trì”.
Eso cevetassa attho. Evañca naṃ dhāreyyāthā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt