Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.121

Tương Ưng Bộ 35.121
Saṃyutta Nikāya 35.121

12. Phẩm Thế Giới Dục Công Ðức
12. Lokakāmaguṇavagga

Rāhula
Rāhulovādasutta

Một thời Thế Tôn ở trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi Thế Tôn trong khi độc cư Thiền tịnh, các tư niệm sau đây được khởi lên:
Atha kho bhagavato rahogatassa paṭisallīnassa evaṃ cetaso parivitakko udapādi:

“Ðã thuần thục là các pháp đưa đến giải thoát được chín muồi cho Rāhula.
“paripakkā kho rāhulassa vimuttiparipācaniyā dhammā;

Vậy Ta hãy giảng dạy cho Rāhula những lời dạy cuối cùng đưa đến đoạn tận các lậu hoặc”.
yannūnāhaṃ rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vineyyan”ti.

Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát đi vào Sāvatthī để khất thực, khất thực xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, gọi Tôn giả Rāhula:
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto āyasmantaṃ rāhulaṃ āmantesi:

“Này Rāhula, hãy cầm tọa cụ.
“gaṇhāhi, rāhula, nisīdanaṃ.

Đi đến khu rừng Đen để nghỉ trưa”.
Yena andhavanaṃ tenupasaṅkamissāma divāvihārāyā”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Tôn giả Rāhula vâng đáp Thế Tôn, cầm lấy tọa cụ, và đi sau lưng Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho āyasmā rāhulo bhagavato paṭissutvā nisīdanaṃ ādāya bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhi.

Lúc bấy giờ, rất nhiều ngàn Thiên nhân đi theo Thế Tôn và nghĩ rằng:
Tena kho pana samayena anekāni devatāsahassāni bhagavantaṃ anubandhāni honti:

“Hôm nay, Thế Tôn sẽ giảng dạy cho Rāhula những lời dạy cuối cùng đưa đến đoạn tận các lậu hoặc”.
“ajja bhagavā āyasmantaṃ rāhulaṃ uttariṃ āsavānaṃ khaye vinessatī”ti.

Rồi Thế Tôn đi sâu vào rừng Andha và ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn dưới gốc cây.
Atha kho bhagavā andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle paññatte āsane nisīdi.

Rồi Tôn giả Rāhula, sau khi đảnh lễ Thế Tôn liền ngồi xuống một bên.
Āyasmāpi kho rāhulo bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Thế Tôn nói với Tôn giả Rāhula đang ngồi xuống một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ rāhulaṃ bhagavā etadavoca:

“Ông nghĩ thế nào, này Rāhula, mắt là thường hay vô thường?”
“Taṃ kiṃ maññasi, rāhula, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu chánh quán cái ấy:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:

‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”. (...)

“Sắc là thường hay vô thường?”
“Rūpā niccā vā aniccā vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn” ...
“Aniccā, bhante” ...pe....

“Nhãn thức là thường hay vô thường?”
“Cakkhuviññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn” ...
“Aniccaṃ, bhante” ...pe....

“Nhãn xúc là thường hay vô thường?”
“Cakkhusamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn” ...
“Anicco, bhante” ...pe....

“Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?”
“Yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ, saññāgataṃ, saṅkhāragataṃ, viññāṇagataṃ, tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại; có hợp lý chăng nếu quán cái ấy:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:

‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?”
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn” ...
“No hetaṃ, bhante” ...pe....

“Vị là thường hay vô thường?”
“Jivhā niccā vā aniccā vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante” ...

“Thiệt thức là thường hay vô thường?”
“Jivhāviññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante” ...

“Thiệt xúc là thường hay vô thường?”
“Jivhāsamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Anicco, bhante” ...pe....

“Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?”
“Yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ, saññāgataṃ, saṅkhāragataṃ, viññāṇagataṃ, tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu chánh quán cái ấy:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:

‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante” ...pe...

“Ý là thường hay vô thường?”
“Mano niccā vā aniccā vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Anicco, bhante”.

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu chánh quán cái ấy:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:

‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Các pháp là thường hay vô thường?”
“Dhammā niccā vā aniccā vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccā, bhante” ...pe....

“Ý thức là thường hay vô thường?”
“Manoviññāṇaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante” ...pe....

“Ý xúc là thường hay vô thường?”
“Manosamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Anicco, bhante” ...pe....

“Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?”
“Yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ, saññāgataṃ, saṅkhāragataṃ, viññāṇagataṃ, tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại; có hợp lý chăng nếu quán cái ấy:
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ:

‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?”
‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Thấy vậy, này Rāhula, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc,
“Evaṃ passaṃ, rāhula, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, rūpesupi nibbindati, cakkhuviññāṇepi nibbindati, cakkhusamphassepi nibbindati,

Phàm duyên nhãn xúc này khởi lên cảm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì; nhàm chán đối với pháp ấy ...
yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati ...pe...

đối với lưỡi, nhàm chán đối với các vị, nhàm chán đối với thiệt thức, nhàm chán đối với thiệt xúc,
jivhāyapi nibbindati, rasesupi nibbindati, jivhāviññāṇepi nibbindati, jivhāsamphassepi nibbindati,

Phàm duyên thiệt xúc này khởi lên cảm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì; nhàm chán đối với pháp ấy ...
yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati ...pe....

đối với ý, nhàm chán đối với pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc.
Manasmimpi nibbindati, dhammesupi nibbindati, manoviññāṇepi nibbindati, manosamphassepi nibbindati,

Do duyên ý xúc này khởi lên cảm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì, nhàm chán đối với pháp ấy.
yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedanāgataṃ saññāgataṃ saṅkhāragataṃ viññāṇagataṃ tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”.
Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.

Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.

Thế Tôn thuyết như vậy. Tôn giả Rāhula hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano āyasmā rāhulo bhagavato bhāsitaṃ abhinandi.

Trong khi lời thuyết giảng này được nói lên, tâm Tôn giả Rāhula được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne āyasmato rāhulassa anupādāya āsavehi cittaṃ vimucci.

Và hàng nhiều ngàn chư Thiên khởi lên pháp nhãn ly trần vô cấu:
Anekānañca devatāsahassānaṃ virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

“Phàm các pháp gì được sanh khởi, tất cả đều bị đoạn diệt”.
“yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt