Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.133

Tương Ưng Bộ 35.133
Saṃyutta Nikāya 35.133

13. Phẩm Gia Chủ
13. Gahapativagga

Verahaccāni
Verahaccānisutta

Một thời Tôn giả Udāyī trú ở Kāmaṇḍā, tại vườn xoài của Bà-la-môn Todeyya.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā udāyī kāmaṇḍāyaṃ viharati todeyyassa brāhmaṇassa ambavane.

Rồi một đệ tử thanh niên của nữ Bà-la-môn, thuộc dòng họ Verahaccāni, đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến, nói với Tôn giả Udāyī những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
Atha kho verahaccānigottāya brāhmaṇiyā antevāsī māṇavako yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā udāyinā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Rồi Tôn giả Udāyī với bài pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thanh niên Bà-la-môn ấy đang ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ māṇavakaṃ āyasmā udāyī dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.

Rồi thanh niên ấy, sau khi được Tôn giả Udāyī với bài pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, liền đi đến nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đến, nói với nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni:
Atha kho so māṇavako āyasmatā udāyinā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito uṭṭhāyāsanā yena verahaccānigottā brāhmaṇī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā verahaccānigottaṃ brāhmaṇiṃ etadavoca:

“Mong nữ Tôn giả biết cho.
“yagghe, bhoti, jāneyyāsi.

Sa-môn Udāyī thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn, và trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh”.
Samaṇo udāyī dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ, sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetī”ti.

“Vậy này Thanh niên, hãy nhân danh ta, mời Sa-môn Udāyī ngày mai đến dùng cơm”.
“Tena hi tvaṃ, māṇavaka, mama vacanena samaṇaṃ udāyiṃ nimantehi svātanāya bhattenā”ti.

“Thưa vâng, Tôn giả”. Thanh niên Bà-la-môn ấy vâng đáp nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến thưa với Tôn giả Udāyī:
“Evaṃ, bhotī”ti kho so māṇavako verahaccānigottāya brāhmaṇiyā paṭissutvā yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca:

“Tôn giả Udāyī, hãy nhận đạo sư phí của chúng tôi là buổi cơm ngày mai từ nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni”.
“adhivāsetu kira, bhavaṃ udāyī amhākaṃ ācariyabhariyāya verahaccānigottāya brāhmaṇiyā svātanāya bhattan”ti.

Tôn giả Udāyī im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā udāyī tuṇhībhāvena.

Rồi Tôn giả Udāyī, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đi đến, liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho āyasmā udāyī tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena verahaccānigottāya brāhmaṇiyā nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni tự tay dâng cúng, hầu hạ Tôn giả Udāyī với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni sau khi thấy Tôn giả Udāyī đã dùng cơm xong, tay đã rút lui khỏi bát, liền mang dép, ngồi trên chỗ ngồi cao, trùm đầu, và thưa với Tôn giả Udāyī:
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ pādukā ārohitvā ucce āsane nisīditvā sīsaṃ oguṇṭhitvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca:

“Này Sa-môn, hãy thuyết pháp”.
“bhaṇa, samaṇa, dhamman”ti.

“Này Chị, thời gian ấy sẽ đến”. Nói xong, Tôn giả Udāyī từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
“Bhavissati, bhagini, samayo”ti vatvā uṭṭhāyāsanā pakkami.

Lần thứ hai, thanh niên Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Udāyī những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Dutiyampi kho so māṇavako yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā udāyinā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Rồi Tôn giả Udāyī với lời pháp thoại trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ thanh niên Bà-la-môn đang ngồi xuống một bên.
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho taṃ māṇavakaṃ āyasmā udāyī dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.

Lần thứ hai, thanh niên Bà-la-môn ấy sau khi được Tôn giả Udāyī với pháp thoại, trình bày, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đến nói với nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni:
Dutiyampi kho so māṇavako āyasmatā udāyinā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito uṭṭhāyāsanā yena verahaccānigottā brāhmaṇī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā verahaccānigottaṃ brāhmaṇiṃ etadavoca:

“Nữ Tôn giả hãy biết.
“yagghe, bhoti, jāneyyāsi.

Sa-môn Udāyī thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn và trình bày Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh”.
Samaṇo udāyī dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ, sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsetī”ti.

“Như vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, Ông nói lời tán thán Sa-môn Udāyī.
“Evamevaṃ pana tvaṃ, māṇavaka, samaṇassa udāyissa vaṇṇaṃ bhāsasi.

Nhưng Sa-môn Udāyī khi được nói: ‘Này Sa-môn, hãy thuyết pháp’, sau khi trả lời: ‘Này Chị, thời ấy sẽ đến’, từ chỗ ngồi đứng dậy, và đi về tịnh xá”.
Samaṇo panudāyī ‘bhaṇa, samaṇa, dhamman’ti vutto samāno ‘bhavissati, bhagini, samayo’ti vatvā uṭṭhāyāsanā pakkanto”ti.

“Thưa nữ Tôn giả, vì rằng nữ Tôn giả đã đi dép, ngồi trên chỗ cao, trùm đầu và nói: ‘Này Sa-môn, hãy thuyết pháp’.
“Tathā hi pana tvaṃ, bhoti, pādukā ārohitvā ucce āsane nisīditvā sīsaṃ oguṇṭhitvā etadavoca: ‘bhaṇa, samaṇa, dhamman’ti.

Các bậc Tôn giả ấy cung kính pháp, tôn trọng pháp”.
Dhammagaruno hi te bhavanto dhammagāravā”ti.

“Vậy, này Thanh niên Bà-la-môn, hãy nhân danh ta, ngày mai mời Sa-môn Udāyī đến dùng cơm”.
“Tena hi tvaṃ, māṇavaka, mama vacanena samaṇaṃ udāyiṃ nimantehi svātanāya bhattenā”ti.

“Thưa vâng, nữ Tôn giả”. Thanh niên Bà-la-môn ấy vâng đáp nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, đi đến Tôn giả Udāyī; sau khi đến, nói với Tôn giả Udāyī:
“Evaṃ, bhotī”ti kho so māṇavako verahaccānigottāya brāhmaṇiyā paṭissutvā yenāyasmā udāyī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca:

“Tôn giả Udāyī, hãy chấp nhận đạo sư phí của chúng tôi là buổi cơm ngày mai từ nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni”.
“adhivāsetu kira bhavaṃ udāyī amhākaṃ ācariyabhariyāya verahaccānigottāya brāhmaṇiyā svātanāya bhattan”ti.

Tôn giả Udāyī im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā udāyī tuṇhībhāvena.

Rồi Tôn giả Udāyī, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi đến nhà của nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni; sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho āyasmā udāyī tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena verahaccānigottāya brāhmaṇiyā nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, tự tay dâng cúng, hầu hạ Tôn giả Udāyī với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm.
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

Rồi nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni, sau khi thấy Tôn giả ăn xong, tay đã rút lui khỏi bát, liền cởi dép, ngồi trên chỗ ngồi thấp, cởi khăn trùm đầu, rồi thưa Tôn giả Udāyī:
Atha kho verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ pādukā orohitvā nīce āsane nisīditvā sīsaṃ vivaritvā āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, do cái gì hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày về lạc khổ? Do cái gì không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ?”
“kismiṃ nu kho, bhante, sati arahanto sukhadukkhaṃ paññapenti, kismiṃ asati arahanto sukhadukkhaṃ na paññapentī”ti?

“Này Chị, do mắt hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do mắt không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ ...
“Cakkhusmiṃ kho, bhagini, sati arahanto sukhadukkhaṃ paññapenti, cakkhusmiṃ asati arahanto sukhadukkhaṃ na paññapenti ...pe...

do lưỡi hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do lưỡi không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ ...
jivhāya sati arahanto sukhadukkhaṃ paññapenti, jivhāya asati arahanto sukhadukkhaṃ na paññapenti ...pe....

Do ý hiện hữu, các bậc A-la-hán trình bày lạc khổ. Do ý không hiện hữu, các bậc A-la-hán không trình bày lạc khổ”.
Manasmiṃ sati arahanto sukhadukkhaṃ paññapenti, manasmiṃ asati arahanto sukhadukkhaṃ na paññapentī”ti.

Khi được nói vậy, nữ Bà-la-môn thuộc dòng họ Verahaccāni thưa với Tôn giả Udāyī:
Evaṃ vutte, verahaccānigottā brāhmaṇī āyasmantaṃ udāyiṃ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả!
“abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Thưa Tôn giả, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;

Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Udāyī dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
evamevaṃ ayyena udāyinā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Và nay, thưa Tôn giả Udāyī, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
Esāhaṃ, ayya udāyi, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.

Tôn giả Udāyī nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng”.
Upāsikaṃ maṃ ayyo udāyī dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt