Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.132

Tương Ưng Bộ 35.132
Saṃyutta Nikāya 35.132

13. Phẩm Gia Chủ
13. Gahapativagga

Lohicca
Lohiccasutta

Một thời Tôn giả Mahākaccāna trú ở giữa dân chúng Avanti, tại Makkarakaṭa, tại một chòi lá trong rừng.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākaccāno avantīsu viharati makkarakate araññakuṭikāyaṃ.

Rồi một số đông đệ tử của Bà-la-môn Lohicca, là những thanh niên lượm củi, đi đến chòi lá trong rừng của Tôn giả Mahākaccāna; sau khi đến, đi qua đi lại, đi vòng quanh chòi lá, cao tiếng, lớn tiếng, và làm đủ loại trò chơi nghịch ngợm:
Atha kho lohiccassa brāhmaṇassa sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā yenāyasmato mahākaccānassa araññakuṭikā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā parito parito kuṭikāya anucaṅkamanti anuvicaranti uccāsaddā mahāsaddā kānici kānici seleyyakāni karonti:

“Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, đê tiện, đen đủi, sanh từ nơi chân này, lại được các kẻ nô tì khuân vác cung kính, tôn trọng, cúng dường, lễ bái”.
“ime pana muṇḍakā samaṇakā ibbhā kaṇhā bandhupādāpaccā, imesaṃ bharatakānaṃ sakkatā garukatā mānitā pūjitā apacitā”ti.

Rồi Tôn giả Mahākaccāna từ trong nhà bước ra và nói với các thanh niên ấy:
Atha kho āyasmā mahākaccāno vihārā nikkhamitvā te māṇavake etadavoca:

“Này các Thanh niên, chớ có làm ồn. Ta sẽ thuyết pháp cho các Ông”.
“mā māṇavakā saddamakattha;dhammaṃ vo bhāsissāmī”ti.

Khi nghe nói vậy, các thanh niên đều im lặng.
Evaṃ vutte, te māṇavakā tuṇhī ahesuṃ.

Rồi Tôn giả Mahākaccāna nói lên những bài kệ với các thanh niên ấy:
Atha kho āyasmā mahākaccāno te māṇavake gāthāhi ajjhabhāsi:

Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Các căn được hộ trì,
Ðược khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục đoạn tận
Mọi tức giận phẫn nộ.
“Sīluttamā pubbatarā ahesuṃ,
Te brāhmaṇā ye purāṇaṃ saranti;
Guttāni dvārāni surakkhitāni,
Ahesuṃ tesaṃ abhibhuyya kodhaṃ.

Họ hân hoan trong pháp,
Họ hân hoan trong Thiền,
Họ là Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Còn kẻ trốn luật này,
Chỉ lắp bắp tụng đọc,
Say mê trong giai cấp,
Họ bước đi khập khểnh.
Dhamme ca jhāne ca ratā ahesuṃ,
Te brāhmaṇā ye purāṇaṃ saranti.
Ime ca vokkamma japāmaseti,
Gottena mattā visamaṃ caranti;

Bị phẫn nộ nhiếp phục,
Dùng nhiều loại gậy gộc,
Họ rơi vào nguy hại.
Giữa bậc Thánh kẻ phàm,
Rỗng không là giới cấm,
Khi căn không chế ngự,
Như người được tài sản,
Trong cơn mộng nằm mơ.
Kodhābhibhūtā puthuattadaṇḍā,
Virajjamānā sataṇhātaṇhesu.
Aguttadvārassa bhavanti moghā,
Supineva laddhaṃ purisassa vittaṃ;

Không ăn, quyết nhịn đói,
Nằm ngủ trên đất trần,
Sáng dậy, tắm sạch tội,
Tụng đọc ba Vệ-đà,
Mặc da thú thô cứng,
Bện tóc, da dính bùn,
Tụng đọc các thần chú,
Giới cấm thủ, khổ hạnh.
Anāsakā thaṇḍilasāyikā ca,
Pāto sinānañca tayo ca vedā.
Kharājinaṃ jaṭāpaṅko,
mantā sīlabbataṃ tapo;

Giả dối và lừa đảo,
Sử dụng các gậy gộc,
Dùng nước để tắm rửa,
Dùng nước để súc miệng,
Ðó là những sắc tướng,
Các hàng Bà-la-môn,
Họ làm và thực hiện,
Mong hưởng những lợi nhỏ.
Kuhanā vaṅkadaṇḍā ca,
udakācamanāni ca;
Vaṇṇā ete brāhmaṇānaṃ,
katā kiñcikkhabhāvanā.

Nhất tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
Cittañca susamāhitaṃ,
vippasannamanāvilaṃ;
Akhilaṃ sabbabhūtesu,
so maggo brahmapattiyā”ti.

Rồi các thanh niên ấy, tức giận và không vui, đi đến Bà-la-môn Lohicca; sau khi đến, thưa với Bà-la-môn Lohicca:
Atha kho te māṇavakā kupitā anattamanā yena lohicco brāhmaṇo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā lohiccaṃ brāhmaṇaṃ etadavocuṃ:

“Mong Tôn giả biết rằng, Sa-môn Mahākaccāna đang một mạch chỉ trích và mạ lị thần chú của các Bà-la-môn”.
“yagghe bhavaṃ jāneyya, samaṇo mahākaccāno brāhmaṇānaṃ mante ekaṃsena apavadati, paṭikkosatī”ti?

Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Lohicca tức giận và không vui.
Evaṃ vutte, lohicco brāhmaṇo kupito ahosi anattamano.

Rồi Bà-la-môn Lohicca suy nghĩ:
Atha kho lohiccassa brāhmaṇassa etadahosi:

“Thật không thích đáng cho ta khi ta nghe một mình các thanh niên Bà-la-môn, rồi phỉ báng và công kích Sa-môn Mahākaccāna. Vậy, ta hãy đi đến và hỏi vị ấy”.
“na kho pana metaṃ patirūpaṃ yohaṃ aññadatthu māṇavakānaṃyeva sutvā samaṇaṃ mahākaccānaṃ akkoseyyaṃ paribhāseyyaṃ. Yannūnāhaṃ upasaṅkamitvā puccheyyan”ti.

Rồi Bà-la-môn Lohicca cùng với các thanh niên Bà-la-môn ấy đi đến Tôn giả Mahākaccāna; sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Lohicca nói với Tôn giả Mahākaccāna:
Atha kho lohicco brāhmaṇo tehi māṇavakehi saddhiṃ yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho lohicco brāhmaṇo āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavoca:

“Tôn giả Kaccāna, có phải có một số đông đệ tử của chúng tôi, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi đã đến đây?”
“āgamaṃsu nu khvidha, bho kaccāna, amhākaṃ sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā”ti?

“Này Bà-la-môn, một số đông đệ tử của Ông, những thanh niên Bà-la-môn lượm củi có đến tại đây”.
“Āgamaṃsu khvidha te, brāhmaṇa, sambahulā antevāsikā kaṭṭhahārakā māṇavakā”ti.

“Thưa Tôn giả Kaccāna, Tôn giả có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy không?”
“Ahu pana bhoto kaccānassa tehi māṇavakehi saddhiṃ kocideva kathāsallāpo”ti?

“Này Bà-la-môn, tôi có nói chuyện với những thanh niên Bà-la-môn ấy”.
“Ahu kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ kocideva kathāsallāpo”ti.

“Như thế nào là câu chuyện giữa Tôn giả Kaccāna với những thanh niên Bà-la-môn ấy?”
“Yathā kathaṃ pana bhoto kaccānassa tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo”ti?

“Này Bà-la-môn, như thế nầy là câu chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy:
“Evaṃ kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo:

Những bậc cổ nhân xưa,
Tối thắng trong giới hạnh,
Các bậc Bà-la-môn,
Ghi nhớ các cổ luật.
Các căn được hộ trì,
Ðược khéo léo chế ngự,
Họ nhiếp phục đoạn tận
Mọi tức giận phẫn nộ.
“Sīluttamā pubbatarā ahesuṃ,
Te brāhmaṇā ye purāṇaṃ saranti;
Guttāni dvārāni surakkhitāni,
Ahesuṃ tesaṃ abhibhuyya kodhaṃ.

...

Nhất tâm, khéo định tĩnh,
Trong sáng, không cấu uế,
Nhu thuận mọi chúng sanh,
Con đường đạt tối thượng.
Cittañca susamāhitaṃ,
vippasannamanāvilaṃ;
Akhilaṃ sabbabhūtesu,
so maggo brahmapattiyā”ti.

Như vậy, này Bà-la-môn, là cuộc nói chuyện giữa tôi và các thanh niên Bà-la-môn ấy”.
Evaṃ kho me, brāhmaṇa, tehi māṇavakehi saddhiṃ ahosi kathāsallāpo”ti.

“Tôn giả Kaccāna có nói đến ‘không hộ trì các căn’. Cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccāna, là không hộ trì các căn?”
“‘Aguttadvāro’ti bhavaṃ kaccāno āha. Kittāvatā nu kho, bho kaccāna, aguttadvāro hotī”ti?

“Ở đây, này Bà-la-môn, có người sau khi mắt thấy sắc, có tâm hướng đến các sắc khả ái, có tâm ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có dư tàn.
“Idha, brāhmaṇa, ekacco cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe adhimuccati, appiyarūpe rūpe byāpajjati, anupaṭṭhitakāyassati ca viharati, parittacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.

Sau khi tai nghe tiếng ...
Sotena saddaṃ sutvā ...

sau khi mũi ngửi hương ...
ghānena gandhaṃ ghāyitvā ...

sau khi lưỡi nếm vị ...
jivhāya rasaṃ sāyitvā ...

sau khi thân cảm xúc ...
kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā ...

sau khi ý biết các pháp, tâm hướng đến các pháp khả ái, tâm ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên, không có đoạn diệt không có dư tàn.
manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme adhimuccati, appiyarūpe ca dhamme byāpajjati, anupaṭṭhitakāyassati ca viharati, parittacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ nappajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.

Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn không có hộ trì”.
Evaṃ kho, brāhmaṇa, aguttadvāro hotī”ti.

“Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Kaccāna, thật là hy hữu, thưa Tôn giả Kaccāna, cách thức Tôn giả Kaccāna đã định nghĩa các căn không hộ trì.
“Acchariyaṃ, bho kaccāna, abbhutaṃ, bho kaccāna. Yāvañcidaṃ bhotā kaccānena aguttadvārova samāno aguttadvāroti akkhāto.

‘Các căn có hộ trì’, Tôn giả Kaccāna đã nói như vậy; cho đến như thế nào, thưa Tôn giả Kaccāna, là các căn có hộ trì?”
‘Guttadvāro’ti bhavaṃ kaccāno āha. Kittāvatā nu kho, bho kaccāna, guttadvāro hotī”ti?

“Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo sau khi mắt thấy sắc, tâm không hướng đến các sắc khả ái, tâm không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
“Idha, brāhmaṇa, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā piyarūpe rūpe nādhimuccati, appiyarūpe rūpe na byāpajjati, upaṭṭhitakāyassati ca viharati, appamāṇacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.

Sau khi tai nghe tiếng ...
Sotena saddaṃ sutvā ...

sau khi mũi ngửi hương ...
ghānena gandhaṃ ghāyitvā ...

sau khi lưỡi nếm vị ...
jivhāya rasaṃ sāyitvā ...

sau khi thân cảm xúc ...
kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā ...

Sau khi ý nhận biết các pháp, tâm không hướng đến các pháp khả ái, tâm không ghét bỏ các pháp không khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các ác bất thiện pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn.
manasā dhammaṃ viññāya piyarūpe dhamme nādhimuccati, appiyarūpe dhamme na byāpajjati, upaṭṭhitakāyassati ca viharati, appamāṇacetaso tañca cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ yathābhūtaṃ pajānāti, yatthassa te uppannā pāpakā akusalā dhammā aparisesā nirujjhanti.

Như vậy, này Bà-la-môn, là các căn được hộ trì”.
Evaṃ kho, brāhmaṇa, guttadvāro hotī”ti.

“Thật là vi diệu, thưa Tôn giả Kaccāna, thật là hy hữu.
“Acchariyaṃ, bho kaccāna, abbhutaṃ, bho kaccāna.

Thưa Tôn giả Kaccāna, cách thức Tôn giả Kaccāna đã định nghĩa các căn được hộ trì.
Yāvañcidaṃ bhotā kaccānena guttadvārova samāno guttadvāroti akkhāto.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccāna! Thật vi diệu thay, Tôn giả Kaccāna!
Abhikkantaṃ, bho kaccāna; abhikkantaṃ, bho kaccāna.

Thưa Tôn giả Kaccāna, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho những ai có mắt được thấy sắc.
Seyyathāpi, bho kaccāna, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;

Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Kaccāna dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
evamevaṃ bhotā kaccānena anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Vậy nay, thưa Tôn giả Kaccāna, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo.
Esāhaṃ, bho kaccāna, taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.

Tôn giả Kaccāna hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ kaccāno dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ.

Và như Tôn giả Kaccāna đi đến viếng các gia đình cư sĩ tại Makkarakaṭa; cũng vậy, mong Tôn giả Kaccāna hãy đến viếng các gia đình Lohicca.
Yathā ca bhavaṃ kaccāno makkarakate upāsakakulāni upasaṅkamati; evameva lohiccakulaṃ upasaṅkamatu.

Tại đấy, các thanh niên và thanh nữ sẽ đảnh lễ Tôn giả Kaccāna, sẽ soạn chỗ ngồi, hay cúng dường nước cho Tôn giả Kaccāna, và như vậy, họ sẽ được hạnh phúc, an lạc trong một thời gian dài”.
Tattha ye māṇavakā vā māṇavikā vā bhavantaṃ kaccānaṃ abhivādessanti paccuṭṭhissanti āsanaṃ vā udakaṃ vā dassanti, tesaṃ taṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt