Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.32

Tương Ưng Bộ 35.32
Saṃyutta Nikāya 35.32

Phẩm Tất Cả
3. Sabbavagga

Thích Hợp (3)
Dutiyasamugghātasappāyasutta

“Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường. Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
“Sabbamaññitasamugghātasappāyaṃ vo, bhikkhave, paṭipadaṃ desessāmi. Taṃ suṇātha.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường?
Katamā ca sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasappāyā paṭipadā?

Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?”
Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ bhante”.

“Các sắc ... Nhãn thức ... Nhãn xúc là thường hay vô thường?”
“Rūpā ...pe... cakkhuviññāṇaṃ ... cakkhusamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Anicco, bhante” ...pe....

“Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?”
“Yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante” ...pe....

“Lưỡi là thường hay vô thường?”
“Jivhā niccā vā aniccā vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn” ...
“Aniccā, bhante” ...pe....

“Vị ... thiệt thức ... thiệt xúc ...
“Rasā ... jivhāviññāṇaṃ ... jivhāsamphasso ...pe...

Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?”
yampidaṃ jivhāsamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn” ...
“Aniccaṃ, bhante” ...pe...

pháp ... ý thức ... ý xúc là thường hay vô thường?”
dhammā ... manoviññāṇaṃ ... manosamphasso nicco vā anicco vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Anicco, bhante”.

“Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường?”
“Yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tampi niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc.
“Evaṃ passaṃ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, rūpesupi nibbindati, cakkhuviññāṇepi nibbindati, cakkhusamphassepi nibbindati.

Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy ...
Yampidaṃ cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati ...pe...

nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc.
Manasmimpi nibbindati, dhammesupi nibbindati, manoviññāṇepi nibbindati, manosamphassepi nibbindati.

Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Yampidaṃ manosamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā tasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: ‘Ta đã giải thoát’.
Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.

Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, nay không còn trở lui trạng thái này nữa’.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con đường thích hợp đưa đến nhổ lên tất cả tư lường”.
Ayaṃ kho sā, bhikkhave, sabbamaññitasamugghātasappāyā paṭipadā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt