Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 35.75

Tương Ưng Bộ 35.75
Saṃyutta Nikāya 35.75

Phẩm Bệnh
8. Gilānavagga

Bệnh (2)
Dutiyagilānasutta

Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn ... Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami ...pe... ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Trong tịnh xá của chúng con, bạch Thế Tôn, có một tân Tỷ-kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng bệnh. Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đi đến Tỷ-kheo ấy vì lòng từ mẫn”.
“amukasmiṃ, bhante, vihāre aññataro bhikkhu navo appaññāto ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno. Sādhu, bhante, bhagavā yena so bhikkhu tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”ti.

Rồi Thế Tôn sau khi nghe tiếng “Mới”, sau khi nghe tiếng “Bệnh”, khi biết được: “Tỷ-kheo ấy ít được người biết đến” liền đi đến Tỷ-kheo ấy.
Atha kho bhagavā navavādañca sutvā gilānavādañca, “appaññāto bhikkhū”ti iti viditvā yena so bhikkhu tenupasaṅkami.

Tỷ-kheo ấy thấy đức Phật từ xa đi đến, sau khi thấy, liền gượng dậy trên giường.
Addasā kho so bhikkhu bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna mañcake samadhosi.

Thế Tôn liền nói với Tỷ-kheo ấy:
Atha kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Thôi! Này Tỷ-kheo, Ông chớ có gượng dậy trên giường. Có những chỗ ngồi đã soạn sẵn, tại đấy Ta sẽ ngồi”.
“alaṃ, bhikkhu, mā tvaṃ mañcake samadhosi. Santimāni āsanāni paññattāni, tatthāhaṃ nisīdissāmī”ti.

Rồi Thế Tôn ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn.
Nisīdi bhagavā paññatte āsane.

Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:
Nisajja kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Này Tỷ-kheo, Ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ giảm thiểu, không tăng trưởng? Có phải có triệu chứng giảm thiểu, không phải tăng trưởng?”
“kacci te, bhikkhu, khamanīyaṃ, kacci yāpanīyaṃ, kacci dukkhā vedanā paṭikkamanti no abhikkamanti, paṭikkamosānaṃ paññāyati no abhikkamo”ti?

“Bạch Thế Tôn, con không thể kham nhẫn, không thể chịu đựng. Mãnh liệt là khổ thọ con cảm giác! Chúng tăng trưởng, không có giảm thiểu. Có triệu chứng tăng trưởng, không phải giảm thiểu”.
“Na me, bhante, khamanīyaṃ, na yāpanīyaṃ, bāḷhā me dukkhā vedanā abhikkamanti no paṭikkamanti, abhikkamosānaṃ paññāyati no paṭikkamo”ti.

“Này Tỷ-kheo, mong rằng Ông không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận”.
“Kacci te, bhikkhu, na kiñci kukkuccaṃ, na koci vippaṭisāro”ti?

“Bạch Thế Tôn, chắc chắn con không có gì nghi ngờ, không có gì hối hận”.
“Taggha me, bhante, anappakaṃ kukkuccaṃ, anappako vippaṭisāro”ti.

“Nhưng đối với giới của mình, Ông có gì tự khiển trách không?”
“Kacci pana taṃ, bhikkhu, attā sīlato upavadatī”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn, con không có gì tự khiển trách đối với giới của mình”.
“Na kho maṃ, bhante, attā sīlato upavadatī”ti.

“Này Tỷ-kheo, nếu đối với giới của mình Ông không có gì để khiển trách, thời này Tỷ-kheo, Ông thế nào cũng có nghi ngờ đối với vấn đề gì, cũng có hối hận gì?”.
“No ce kira te, bhikkhu, attā sīlato upavadati, atha kiñca te kukkuccaṃ ko ca vippaṭisāro”ti?

“Bạch Thế Tôn, con không hiểu pháp Thế Tôn dạy về mục đích thanh tịnh trì giới”.
“Anupādāparinibbānatthaṃ khvāhaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”ti.

“Này Tỷ-kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì giới, thời này Tỷ-kheo, Ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?”
“No ce kira tvaṃ, bhikkhu, sīlavisuddhatthaṃ mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsi, atha kimatthaṃ carahi tvaṃ, bhikkhu, mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsī”ti?

“Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp Thế Tôn dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không chấp thủ”.
“Rāgavirāgatthaṃ khvāhaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī”ti.

“Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo! Lành thay, này Tỷ-kheo! Ông hiểu pháp Ta dạy là với mục đích tịch tịnh hoàn toàn, không có chấp thủ, này Tỷ-kheo, là pháp Ta dạy.
“Sādhu sādhu, bhikkhu. Sādhu kho tvaṃ, bhikkhu, anupādāparinibbānatthaṃ mayā dhammaṃ desitaṃ ājānāsi. Anupādāparinibbānattho hi, bhikkhu, mayā dhammo desito.

Ông nghĩ thế nào, này Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường?”
Taṃ kiṃ maññasi, bhikkhu, cakkhu niccaṃ vā aniccaṃ vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Aniccaṃ, bhante”.

” ... Tai ... Mũi ... Lưỡi ... Thân ... Ý là thường hay vô thường?”
“ ...pe... Sotaṃ ... ghānaṃ ... jivhā ... kāyo ... mano nicco vā anicco vā”ti?

“Là vô thường, bạch Thế Tôn”.
“Anicco, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vā taṃ sukhaṃ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn”.
“Dukkhaṃ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṃ panāniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ, kallaṃ nu taṃ samanupassituṃ: ‘etaṃ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Thấy vậy, này Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với ý.
“Evaṃ passaṃ, bhikkhu, sutavā ariyasāvako cakkhusmimpi nibbindati, sotasmimpi nibbindati ...pe... manasmimpi nibbindati.

Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: Ta đã được giải thoát.
Nibbindaṃ virajjati; virāgā vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.

Vị ấy biết rõ: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘Khīṇā jāti ...pe... nāparaṃ itthattāyā’ti pajānātī”ti.

Thế Tôn thuyết như vậy. Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tán thán lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamano so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinandi.

Và trong khi lời dạy này được nói lên, tâm Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne tassa bhikkhussa anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt