Tương Ưng Bộ 35.95
Saṃyutta Nikāya 35.95
10. Phẩm Từ Bỏ
10. Saḷavagga
Thâu Nhiếp (2)
Mālukyaputtasutta
Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta đi đến Thế Tôn ... Ngồi xuống một bên, Tôn giả Māluṅkyaputta bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā mālukyaputto yena bhagavā tenupasaṅkami ...pe... ekamantaṃ nisinno kho āyasmā mālukyaputto bhagavantaṃ etadavoca:
“Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.
“sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu, yamahaṃ bhagavato dhammaṃ sutvā eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.
“Ở đây, này Māluṅkyaputta, nay Ta nói gì với các Tỷ-kheo trẻ tuổi, khi Ông là một Tỷ-kheo già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, lại yêu cầu Ta giáo giới một cách vắn tắt?”
“Ettha dāni, mālukyaputta, kiṃ dahare bhikkhū vakkhāma. Yatra hi nāma tvaṃ, bhikkhu, jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto saṅkhittena ovādaṃ yācasī”ti.
“Bạch Thế Tôn, dầu cho con già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, mong Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Mong Thiện Thệ hãy thuyết pháp vắn tắt cho con! Chắc chắn con sẽ hiểu ý nghĩa lời Thế Tôn giảng. Chắc chắn con sẽ trở thành người thừa tự pháp của Thế Tôn”.
“Kiñcāpāhaṃ, bhante, jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto. Desetu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ, desetu sugato saṅkhittena dhammaṃ, appeva nāmāhaṃ bhagavato bhāsitassa atthaṃ ājāneyyaṃ. Appeva nāmāhaṃ bhagavato bhāsitassa dāyādo assan”ti.
“Ông nghĩ thế nào, này Māluṅkyaputta? Các sắc do mắt nhận thức, Ông không thấy, trước đây Ông không thấy, nay Ông không thấy, và Ông không muốn thấy; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?”
“Taṃ kiṃ maññasi, mālukyaputta, ye te cakkhuviññeyyā rūpā adiṭṭhā adiṭṭhapubbā, na ca passasi, na ca te hoti passeyyanti? Atthi te tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.
“Các tiếng do tai nhận thức, Ông không nghe, trước đây Ông không nghe, nay Ông không nghe, và Ông không muốn nghe; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái hay không?”
“Ye te sotaviññeyyā saddā assutā assutapubbā, na ca suṇāsi, na ca te hoti suṇeyyanti? Atthi te tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.
“Các hương do mũi nhận thức, Ông không ngửi, trước đây Ông không ngửi, nay Ông không ngửi, và Ông không muốn ngửi; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?”
“Ye te ghānaviññeyyā gandhā aghāyitā aghāyitapubbā, na ca ghāyasi, na ca te hoti ghāyeyyanti? Atthi te tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.
“Các vị do lưỡi nhận thức, Ông không nếm, trước đây Ông không nếm, nay Ông không nếm, và Ông không muốn nếm; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?”
“Ye te jivhāviññeyyā rasā asāyitā asāyitapubbā, na ca sāyasi, na ca te hoti sāyeyyanti? Atthi te tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.
“Các xúc do thân nhận thức, Ông không cảm thọ, trước đây Ông không cảm thọ, nay Ông không cảm thọ, và Ông không muốn cảm thọ; ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?”
“Ye te kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā asamphuṭṭhā asamphuṭṭhapubbā, na ca phusasi, na ca te hoti phuseyyanti? Atthi te tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.
“Các pháp do ý thức nhận thức, Ông không nhận thức, trước đây Ông không nhận thức, và Ông không muốn nhận thức;ở đây đối với chúng, Ông có lòng dục, tham hay khát ái không?”
“Ye te manoviññeyyā dhammā aviññātā aviññātapubbā, na ca vijānāsi, na ca te hoti vijāneyyanti? Atthi te tattha chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?
“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.
“Và ở đây, này Māluṅkyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, sẽ chỉ nghe được với những vật nghe được, sẽ chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, sẽ chỉ nhận biết được đối với những vật có thể nhận biết được.
“Ettha ca te, mālukyaputta, diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu diṭṭhe diṭṭhamattaṃ bhavissati, sute sutamattaṃ bhavissati, mute mutamattaṃ bhavissati, viññāte viññātamattaṃ bhavissati.
Vì rằng, này Māluṅkyaputta, đối với các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được biết đến, Ông sẽ chỉ thấy được với những vật thấy được, chỉ nghe được với những vật nghe được, chỉ cảm nhận được đối với những vật cảm nhận được, chỉ nhận biết được đối với những vật nhận biết được.
Yato kho te, mālukyaputta, diṭṭhasutamutaviññātabbesu dhammesu diṭṭhe diṭṭhamattaṃ bhavissati, sute sutamattaṃ bhavissati, mute mutamattaṃ bhavissati, viññāte viññātamattaṃ bhavissati;
Cho nên, này Māluṅkyaputta, Ông không có vì cái ấy.
tato tvaṃ, mālukyaputta, na tena.
Do vì, này Māluṅkyaputta, Ông không có vì cái ấy;
Yato tvaṃ, mālukyaputta, na tena;
Cho nên, này Māluṅkyaputta nên Ông không có: “Ở nơi đây”.
tato tvaṃ, mālukyaputta, na tattha.
Do vì, này Māluṅkyaputta, Ông không có: “Ở nơi đây”,
Yato tvaṃ, mālukyaputta, na tattha;
do vậy, này Māluṅkyaputta, Ông sẽ không có đời này, đời sau, và giữa hai đời ấy.
tato tvaṃ, mālukyaputta, nevidha, na huraṃ, na ubhayamantarena.
Ðây là sự chấm dứt khổ đau”.
Esevanto dukkhassā”ti.
“Bạch Thế Tôn, lời giảng vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu một cách rộng rãi như sau:
“Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāmi:
Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến sắc an trú.
‘Rūpaṃ disvā sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ sắc sinh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðược gọi xa Niết—bàn.
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā rūpasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
Nghe tiếng, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến tiếng an trú.
Saddaṃ sutvā sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ tiếng sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðựơc gọi xa Niết-bàn.
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā saddasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
Ngửi hương, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến hương an trú.
Gandhaṃ ghatvā sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ hương sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðược gọi xa Niết-bàn.
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā gandhasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
Nếm vị, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến vị an trú.
Rasaṃ bhotvā sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ vị sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðược gọi xa Niết-bàn.
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā rasasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
Cảm xúc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến xúc an trú.
Phassaṃ phussa sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vì cảm thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ xúc sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðược gọi xa Niết-bàn.
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā phassasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
Biết pháp, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến pháp an trú.
Dhammaṃ ñatvā sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ pháp sanh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðược gọi xa Niết-bàn
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā dhammasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
Vị ấy không tham sắc,
Thấy sắc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến sắc an trú.
Na so rajjati rūpesu,
rūpaṃ disvā paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo sắc, vị ấy thấy,
Tùy sắc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa.
Ðược gọi gần Niết-bàn
Yathāssa passato rūpaṃ,
sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
santike nibbāna vuccati.
Vị ấy không tham tiếng,
Nghe tiếng, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến tiếng an trú.
Na so rajjati saddesu,
saddaṃ sutvā paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo tiếng, vị ấy nghe,
Tùy tiếng, thọ cảm giác.
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Ðược gọi gần Niết-bàn.
Yathāssa suṇato saddaṃ,
sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
santike nibbāna vuccati.
Vị ấy không tham hương,
Ngửi hương, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến hương an trú.
Na so rajjati gandhesu,
gandhaṃ ghatvā paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo hương, vị ấy ngửi,
Tùy hương, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa.
Ðược gọi gần Niết-bàn.
Yathāssa ghāyato gandhaṃ,
sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
santike nibbāna vuccati.
Vị ấy không tham vị,
Nếm vị, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến vị an trú.
Na so rajjati rasesu,
rasaṃ bhotvā paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo vị, vị ấy nếm.
Tùy vị, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa.
Ðược gọi gần Niết-bàn.
Yathāssa sāyato rasaṃ,
sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
santike nibbāna vuccati.
Vị ấy không tham xúc,
Cảm xúc, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến xúc an trú,
Na so rajjati phassesu,
phassaṃ phussa paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo xúc, vị ấy cảm,
Tùy xúc, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Ðược gọi gần Niết-bàn.
Yathāssa phusato phassaṃ,
sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
santike nibbāna vuccati.
Vị ấy không tham pháp,
Biết pháp, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến pháp an trú.
Na so rajjati dhammesu,
dhammaṃ ñatvā paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo pháp, vị ấy cảm,
Tùy pháp, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Ðược gọi gần Niết-bàn.
Yathāssa jānato dhammaṃ,
Sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
Evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
Santike nibbāna vuccatī’ti.
Bạch Thế Tôn, lời Thế Tôn nói vắn tắt này, con hiểu một cách rộng rãi như vậy”.
Imassa khvāhaṃ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.
“Lành thay, lành thay, này Māluṅkyaputta! Lành thay, này Māluṅkyaputta, lời nói vắn tắt của Ta, Ông đã hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi:
“Sādhu sādhu, mālukyaputta. Sādhu kho tvaṃ, mālukyaputta, mayā saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthaṃ ājānāsi:
Thấy sắc, niệm mê say,
Tác ý đến ái tướng,
Tâm tham đắm cảm thọ,
Tham luyến sắc an trú.
‘Rūpaṃ disvā sati muṭṭhā,
Piyaṃ nimittaṃ manasi karoto;
Sārattacitto vedeti,
Tañca ajjhosa tiṭṭhati.
Vị ấy, thọ tăng trưởng,
Nhiều loại, từ sắc sinh,
Tham dục và hại tâm,
Não hại tâm vị ấy,
Như vậy, khổ tích lũy,
Ðược gọi xa Niết—bàn.
Tassa vaḍḍhanti vedanā,
anekā rūpasambhavā;
Abhijjhā ca vihesā ca,
cittamassūpahaññati;
Evaṃ ācinato dukkhaṃ,
ārā nibbāna vuccati.
...
Vị ấy không tham pháp,
Biết pháp, không ái luyến,
Tâm không dính cảm thọ,
Không luyến pháp an trú.
Na so rajjati dhammesu,
dhammaṃ ñatvā paṭissato;
Virattacitto vedeti,
tañca nājjhosa tiṭṭhati.
Theo pháp, vị ấy cảm,
Tùy pháp, thọ cảm giác,
Tiêu mòn, không tích lũy,
Như vậy, chánh niệm hành,
Như vậy, khổ không chứa,
Ðược gọi gần Niết-bàn.
Yathāssa jānato dhammaṃ,
Sevato cāpi vedanaṃ;
Khīyati nopacīyati,
Evaṃ so caratī sato;
Evaṃ apacinato dukkhaṃ,
Santike nibbāna vuccatī’ti.
Lời nói vắn tắt này của Ta, này Māluṅkyaputta, Ông cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy”.
Imassa kho, mālukyaputta, mayā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti.
Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi.
Atha kho āyasmā mālukyaputto bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
Rồi Tôn giả Māluṅkyaputta sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, chứng được mục đích mà các thiện gia nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Atha kho āyasmā mālukyaputto eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.
Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti abbhaññāsi.
Và Tôn giả Māluṅkyaputta trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro ca panāyasmā mālukyaputto arahataṃ ahosīti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt