Tương Ưng Bộ 41.10
Saṃyutta Nikāya 41.10
1. Phẩm Tâm
1. Cittavagga
Thăm Người Bệnh
Gilānadassanasutta
Lúc bấy giờ, gia chủ Citta bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
Tena kho pana samayena citto gahapati ābādhiko hoti dukkhito bāḷhagilāno.
Rồi số đông chư Thiên ở hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng tụ hội lại và nói với gia chủ Citta:
Atha kho sambahulā ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā saṅgamma samāgamma cittaṃ gahapatiṃ etadavocuṃ:
Này Gia chủ hãy nguyện: “Trong tương lai, ta sẽ thành vua Chuyển luân Thánh vương!”
“paṇidhehi, gahapati, anāgatamaddhānaṃ rājā assaṃ cakkavattī”ti.
Khi được nghe nói vậy, gia chủ Citta nói với chư Thiên ở hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng:
Evaṃ vutte, citto gahapati tā ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā etadavoca:
“Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua”.
“tampi aniccaṃ, tampi addhuvaṃ, tampi pahāya gamanīyan”ti.
Khi được nghe nói vậy, các bạn bè thân hữu, các bà con huyết thống nói với gia chủ Ciita:
Evaṃ vutte, cittassa gahapatino mittāmaccā ñātisālohitā cittaṃ gahapatiṃ etadavocuṃ:
“Này Thiện gia nam tử, hãy an trú chánh niệm, chớ có nói lung tung”.
“satiṃ, ayyaputta, upaṭṭhapehi, mā vippalapī”ti.
“Tôi nói với các vị những gì khiến các vị nói với tôi: ‘Này Thiện gia nam tử, hãy an trú chánh niệm, chớ có nói lung tung’?”
“Kiṃ tāhaṃ vadāmi yaṃ maṃ tumhe evaṃ vadetha: ‘satiṃ, ayyaputta, upaṭṭhapehi, mā vippalapī’”ti?
“Này Thiện nam tử, vì Ông nói như sau: ‘Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua’.”
“Evaṃ kho tvaṃ, ayyaputta, vadesi: ‘tampi aniccaṃ, tampi addhuvaṃ, tampi pahāya gamanīyan’”ti.
Vì rằng, chư Thiên các hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên trú ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng đã nói với tôi như sau: “Này Gia chủ, hãy nguyện:
“Tathā hi pana maṃ ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā evamāhaṃsu:
‘Trong tương lai, ta sẽ thành vua Chuyển luân Thánh vương’.
‘paṇidhehi, gahapati, anāgatamaddhānaṃ rājā assaṃ cakkavattī’ti.
Cho nên tôi mới trả lời với họ: ‘Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua’”.
Tāhaṃ evaṃ vadāmi: ‘tampi aniccaṃ ...pe... tampi pahāya gamanīyan’”ti.
“Này Thiện gia nam tử, các chư Thiên ở hoa viên ... các cây trong rừng đã quán thấy ý nghĩa gì mà nói với Ông:
“Kiṃ pana tā, ayyaputta, ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā atthavasaṃ sampassamānā evamāhaṃsu:
Này Gia chủ hãy nguyện: ‘Trong tương lai, ta sẽ thành vua Chuyển luân Thánh vương’?”
‘paṇidhehi, gahapati, anāgatamaddhānaṃ rājā assaṃ cakkavattī’”ti?
“Các chư Thiên ở hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên trú ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng ấy đã suy nghĩ như sau:
“Tāsaṃ kho ārāmadevatānaṃ vanadevatānaṃ rukkhadevatānaṃ osadhitiṇavanappatīsu adhivatthānaṃ devatānaṃ evaṃ hoti:
‘Gia chủ Citta này giữ giới, tánh thiện, nếu phát nguyện: ‘Trong tương lai, ta sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương!’
‘ayaṃ kho citto gahapati, sīlavā kalyāṇadhammo. Sace paṇidahissati— anāgatamaddhānaṃ rājā assaṃ cakkavattī’ti,
‘Tâm nguyện thanh tịnh, đúng pháp, sẽ làm cho thành công người trì giới, sẽ đem đến quả đúng pháp’.
‘tassa kho ayaṃ ijjhissati, sīlavato cetopaṇidhi visuddhattā dhammiko dhammikaṃ phalaṃ anupassatī’ti.
Chư Thiên ở hoa viên, chư Thiên ở rừng, chư Thiên ở cây, chư Thiên ở rừng các dược thảo, các cây trong rừng ấy, do quán thấy ý nghĩa như vậy nên đã nói như sau:
Imaṃ kho tā ārāmadevatā vanadevatā rukkhadevatā osadhitiṇavanappatīsu adhivatthā devatā atthavasaṃ sampassamānā evamāhaṃsu:
‘Này Gia chủ, hãy phát nguyện: Trong tương lai ta làm vị Chuyển luân Thánh vương’.
‘paṇidhehi, gahapati, anāgatamaddhānaṃ rājā assaṃ cakkavattī’ti.
Do vậy, tôi nói với họ: ‘Cái ấy là vô thường, cái ấy là không thường hằng, cái ấy cần phải bỏ đi và vượt qua’.”
Tāhaṃ evaṃ vadāmi: ‘tampi aniccaṃ, tampi addhuvaṃ, tampi pahāya gamanīyan’”ti.
“Này Thiện gia nam tử, hãy giáo giới cho chúng tôi”.
“Tena hi, ayyaputta, amhepi ovadāhī”ti.
“Vậy các Ông cần phải học như sau:
“Tasmā hi vo evaṃ sikkhitabbaṃ—
Chúng tôi sẽ đầy đủ lòng tin bất động đối với đức Phật:
buddhe aveccappasādena samannāgatā bhavissāma:
‘Vị ấy là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn’.
‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
Chúng tôi sẽ có đủ lòng tin bất động đối với Pháp:
Dhamme aveccappasādena samannāgatā bhavissāma:
‘Ðây là Pháp do Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có kết quả tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu’.
‘svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.
Chúng tôi sẽ có đầy đủ lòng tin bất động đối với chúng Tăng:
Saṅghe aveccappasādena samannāgatā bhavissāma:
‘Thiện hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Trực hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Như lý hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Thanh tịnh hạnh là chúng đệ tử của Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử của Thế Tôn là đáng được tôn kính, đáng được cung kính, đáng được kính lễ, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở đời’.
‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.
Tất cả những gì có thể đem cho trong gia tộc, tất cả phải đem cúng dường, phân phát cho những vị trì giới và có thiện tánh. Như vậy, các Ông cần phải học tập”.
Yaṃ kho pana kiñci kule deyyadhammaṃ sabbaṃ taṃ appaṭivibhattaṃ bhavissati sīlavantehi kalyāṇadhammehīti evañhi vo sikkhitabban”ti.
Khi gia chủ Citta khiến cho các bạn bè thân hữu, các bà con huyết thống có tịnh tín đối với đức Phật, đối với Pháp, đối với chúng Tăng và khuyên họ bố thí, vị ấy liền mệnh chung.
Atha kho citto gahapati mittāmacce ñātisālohite buddhe ca dhamme ca saṅghe ca cāge ca samādapetvā kālamakāsīti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt