Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 41.9

Tương Ưng Bộ 41.9
Saṃyutta Nikāya 41.9

1. Phẩm Tâm
1. Cittavagga

Acela (Lõa thể)
Acelakassapasutta

Lúc bấy giờ lõa thể Kassapa đã đi đến Macchikāsaṇḍa, một bạn cũ của gia chủ Citta khi còn là gia chủ.
Tena kho pana samayena acelo kassapo macchikāsaṇḍaṃ anuppatto hoti cittassa gahapatino purāṇagihisahāyo.

Gia chủ Citta nghe “lõa thể Kassapa, một bạn cũ của mình khi còn là gia chủ, đã đến Macchikāsaṇḍa”.
Assosi kho citto gahapati: “acelo kira kassapo macchikāsaṇḍaṃ anuppatto amhākaṃ purāṇagihisahāyo”ti.

Rồi gia chủ Citta đi đến lõa thể Kassapa; sau khi đến, nói lên với lõa thể Kassapa những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yena acelo kassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelena kassapena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi một bên, gia chủ Citta nói với lõa thể Kassapa:
Ekamantaṃ nisinno kho citto gahapati acelaṃ kassapaṃ etadavoca:

“Tôn giả Kassapa, Tôn giả xuất gia đã bao lâu?”
“kīvaciraṃ pabbajitassa, bhante kassapā”ti?

“Này Gia chủ, ta đã xuất gia khoảng ba mươi năm”.
“Tiṃsamattāni kho me, gahapati, vassāni pabbajitassā”ti.

“Thưa Tôn giả, trong ba mươi năm ấy, Tôn giả có chứng được pháp thượng nhơn nào, tri kiến thù thắng nào xứng đáng bậc Thánh và được lạc trú?”
“Imehi pana te, bhante, tiṃsamattehi vassehi atthi koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro”ti?

“Này Gia chủ, trong suốt ba mươi năm ấy, ta không chứng được và không được lạc trú một pháp thượng nhân nào, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh, ngoại trừ sự lõa thể, sự trọc đầu, sự phủi bụi và đất cát”.
“Imehi kho me, gahapati, tiṃsamattehi vassehi pabbajitassa natthi koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro, aññatra naggeyyā ca muṇḍeyyā ca pāvaḷanipphoṭanāya cā”ti.

Khi nghe nói vậy, gia chủ Citta nói với lõa thể Kassapa:
Evaṃ vutte, citto gahapati acelaṃ kassapaṃ etadavoca:

“Thật là bất tư nghì, thật là hy hữu, chánh pháp được thuyết trong suốt ba mươi năm ấy, không chứng được, không được lạc trú một pháp thượng nhân nào, một tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh!”
“acchariyaṃ vata, bho, abbhutaṃ vata, bho. Dhammassa svākkhātatā yatra hi nāma tiṃsamattehi vassehi na koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato abhavissa phāsuvihāro, aññatra naggeyyā ca muṇḍeyyā ca pāvaḷanipphoṭanāya cā”ti.

“Này Gia chủ, đã bao lâu Ông làm người cư sĩ?”
“Tuyhaṃ pana, gahapati, kīvaciraṃ upāsakattaṃ upagatassā”ti?

“Thưa Tôn giả, tôi thành người cư sĩ đã được ba mươi năm”.
“Mayhampi kho pana, bhante, tiṃsamattāni vassāni upāsakattaṃ upagatassā”ti.

“Trong suốt ba mươi năm ấy, này Gia chủ, Ông có chứng được và được lạc trú pháp thượng nhân nào, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?”
“Imehi pana te, gahapati, tiṃsamattehi vassehi atthi koci uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro”ti?

“Sao lại không vậy được, thưa Tôn giả!
“Gihinopi siyā, bhante.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi chỉ tịnh tầm và tứ ... chứng và trú Thiền thứ hai.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, vitakkavicārānaṃ vūpasamā ... dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, ly hỷ ... tôi chứng và trú Thiền thứ ba.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, pītiyā ca virāgā ...pe... tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, đoạn tận lạc ... tôi chứng và trú Thiền thứ tư.
Ahañhi, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, sukhassa ca pahānā ...pe... catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

Nếu tôi mệnh chung sớm hơn Thế Tôn, thưa Tôn giả, không có gì lạ, nếu Thế Tôn sẽ nói về tôi như sau:
Sace kho panāhaṃ, bhante, bhagavato paṭhamataraṃ kālaṃ kareyyaṃ, anacchariyaṃ kho panetaṃ yaṃ maṃ bhagavā evaṃ byākareyya:

‘Không có một kiết sử nào, do bị trói buộc bởi kiết sử ấy, Citta trở lui tại thế giới này nữa’.”
‘natthi taṃ saṃyojanaṃ yena saṃyojanena saṃyutto citto gahapati puna imaṃ lokaṃ āgaccheyyā’”ti.

Khi nghe nói vậy, lõa thể Kassapa nói với gia chủ Citta:
Evaṃ vutte, acelo kassapo cittaṃ gahapatiṃ etadavoca:

“Thật là vi diệu, thưa Tôn giả! Thật là hy hữu, thưa Tôn giả, Chánh pháp được khéo thuyết. Một gia chủ mặc áo trắng lại có thể chứng đạt được, lại có thể lạc trú pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh! Thưa Gia chủ, hãy cho tôi được xuất gia trong Pháp và Luật này. Hãy cho tôi thọ đại giới”.
“acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho. Dhammassa svākkhātatā, yatra hi nāma gihī odātavasano evarūpaṃ uttari manussadhammā alamariyañāṇadassanavisesaṃ adhigamissati phāsuvihāraṃ. Labheyyāhaṃ, gahapati, imasmiṃ dhammavinaye pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadan”ti.

Rồi gia chủ Citta đưa lõa thể Kassapa đến một số Tỷ-kheo trưởng lão; sau khi đến, thưa với các Tỷ-kheo trưởng lão:
Atha kho citto gahapati acelaṃ kassapaṃ ādāya yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū etadavoca:

“Bạch chư Thượng tọa, lõa thể Kassapa này là một người bạn của chúng con khi chúng con còn là gia chủ.
“ayaṃ, bhante, acelo kassapo amhākaṃ purāṇagihisahāyo.

Chư Thượng tọa hãy cho người này xuất gia, cho thọ đại giới.
Imaṃ therā pabbājentu upasampādentu.

Con sẽ cố gắng cúng dường các vật liệu như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh”.
Ahamassa ussukkaṃ karissāmi cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānappaccayabhesajjaparikkhārānan”ti.

Lõa thể Kassapa được xuất gia trong Pháp và Luật này, được thọ đại giới.
Alattha kho acelo kassapo imasmiṃ dhammavinaye pabbajjaṃ, alattha upasampadaṃ.

Ðược thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Kassapa sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Không bao lâu vị ấy đạt được mục đích mà các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến: đó là Vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, tự mình chứng tri với thượng trí, chứng đạt và an trú.
Acirūpasampanno ca panāyasmā kassapo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.

Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti abbhaññāsi.

Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro ca panāyasmā kassapo arahataṃ ahosīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt