Tương Ưng Bộ 41.8
Saṃyutta Nikāya 41.8
1. Phẩm Tâm
1. Cittavagga
Nigaṇṭha (Ni-kiền-tử)
Nigaṇṭhanāṭaputtasutta
Lúc bấy giờ, Nigaṇṭha Nāṭaputta đã đi đến Macchikāsaṇḍa với một đại chúng Nigaṇṭha.
Tena kho pana samayena nigaṇṭho nāṭaputto macchikāsaṇḍaṃ anuppatto hoti mahatiyā nigaṇṭhaparisāya saddhiṃ.
Gia chủ Citta được nghe “Nigaṇṭha Nāṭaputta đã đi đến Macchikāsaṇḍa với một đại chúng Nigaṇṭha”.
Assosi kho citto gahapati: “nigaṇṭho kira nāṭaputto macchikāsaṇḍaṃ anuppatto mahatiyā nigaṇṭhaparisāya saddhin”ti.
Rồi gia chủ Citta cùng với một số đông gia chủ khác đi đến Nigaṇṭha Nāṭaputta; sau khi đến, nói lên những lời hỏi thăm xã giao, sau khi nói lên những lời hỏi thăm xã giao thân hữu liền ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati sambahulehi upāsakehi saddhiṃ yena nigaṇṭho nāṭaputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā nigaṇṭhena nāṭaputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Nigaṇṭha Nāṭaputta nói với gia chủ Citta đang ngồi một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho cittaṃ gahapatiṃ nigaṇṭho nāṭaputto etadavoca:
“Có phải, này Gia chủ, Ông tin tưởng vào lời dạy này của Sa-môn Gotama: Có một định không tầm, không tứ, có sự đoạn diệt các tầm và tứ?”
“saddahasi tvaṃ, gahapati, samaṇassa gotamassa— atthi avitakko avicāro samādhi, atthi vitakkavicārānaṃ nirodho”ti?
“Thưa Tôn giả, ở đây tôi không có đặt lòng tin vào Thế Tôn trong vấn đề: Có một Thiền định không tầm, không tứ, có sự đoạn diệt các tầm và tứ”.
“Na khvāhaṃ ettha, bhante, bhagavato saddhāya gacchāmi. Atthi avitakko avicāro samādhi, atthi vitakkavicārānaṃ nirodho”ti.
Ðược nghe nói vậy, Nigaṇṭha Nāṭaputta nhìn quanh hội chúng của mình và nói:
Evaṃ vutte, nigaṇṭho nāṭaputto ulloketvā etadavoca:
“Chư Tôn giả có thấy chăng? Thật chất trực là gia chủ Citta này! Thật không hư ngụy là gia chủ Citta này! Thật không hư vọng là gia chủ Citta này! Ai nghĩ rằng tầm và tứ có thể đoạn diệt được tức là nghĩ rằng có thể trói được gió trong cái lưới. Ai nghĩ rằng tầm và tứ có thể đoạn diệt được tức là nghĩ rằng có thể dùng nắm tay của mình để chận đứng dòng nước sông Hằng”.
“idaṃ bhavanto passantu, yāva ujuko cāyaṃ citto gahapati, yāva asaṭho cāyaṃ citto gahapati, yāva amāyāvī cāyaṃ citto gahapati, vātaṃ vā so jālena bādhetabbaṃ maññeyya, yo vitakkavicāre nirodhetabbaṃ maññeyya, sakamuṭṭhinā vā so gaṅgāya sotaṃ āvāretabbaṃ maññeyya, yo vitakkavicāre nirodhetabbaṃ maññeyyā”ti.
“Tôn giả nghĩ thế nào, thưa Tôn giả, cái gì thù thắng hơn, trí hay là lòng tin?”
“Taṃ kiṃ maññasi, bhante, katamaṃ nu kho paṇītataraṃ—ñāṇaṃ vā saddhā vā”ti?
“Này Gia chủ, trí thù thắng hơn lòng tin”.
“Saddhāya kho, gahapati, ñāṇaṃyeva paṇītataran”ti.
“Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, ly dục, ly bất thiện pháp, tôi chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
“Ahaṃ kho, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.
Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi làm tịnh chỉ các tầm và tứ ...
Ahaṃ kho, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, vitakkavicārānaṃ vūpasamā ...pe...
chứng và trú Thiền thứ hai.
dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.
Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi đoạn tận hỷ ...
Ahaṃ kho, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, pītiyā ca virāgā ...pe...
chứng và trú Thiền thứ ba.
tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.
Nếu tôi muốn, thưa Tôn giả, tôi có thể đoạn tận lạc ...
Ahaṃ kho, bhante, yāvadeva ākaṅkhāmi, sukhassa ca pahānā ...pe...
chứng và trú Thiền thứ tư.
catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.
Biết như vậy, thưa Tôn giả, thấy như vậy, tôi sẽ đi đến lòng tin đối với bất cứ vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn nào rằng: ‘Có Thiền định không tầm, không tứ, có sự đoạn diệt các tầm và tứ’.”
Na so khvāhaṃ, bhante, evaṃ jānanto evaṃ passanto kassa aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā saddhāya gamissāmi? Atthi avitakko avicāro samādhi, atthi vitakkavicārānaṃ nirodho”ti.
Khi nghe nói vậy, Nigaṇṭha Nāṭaputta nhìn quanh hội chúng của mình và nói:
Evaṃ vutte, nigaṇṭho nāṭaputto sakaṃ parisaṃ apaloketvā etadavoca:
“Chư Tôn giả có thấy chăng? Thật không chất trực là gia chủ Citta này! Thật hư ngụy là gia chủ Citta này! Thật hư vọng là gia chủ Citta này!”
“idaṃ bhavanto passantu, yāva anujuko cāyaṃ citto gahapati, yāva saṭho cāyaṃ citto gahapati, yāva māyāvī cāyaṃ citto gahapatī”ti.
“Thưa Tôn giả, tôi hiểu lời nói của Tôn giả rằng: ‘Chư Tôn giả có thấy chăng? Thật chất trực là gia chủ Citta này! Thật không hư ngụy là gia chủ Citta này! Thật không hư vọng là gia chủ Citta này!’.
“Idāneva kho te mayaṃ, bhante, bhāsitaṃ: ‘evaṃ ājānāma idaṃ bhavanto passantu, yāva ujuko cāyaṃ citto gahapati, yāva asaṭho cāyaṃ citto gahapati, yāva amāyāvī cāyaṃ citto gahapatī’ti.
Và này, thưa Tôn giả, tôi hiểu lời nói của Tôn giả rằng: ‘Chư Tôn giả có thấy chăng? Thật không chất trực là gia chủ Citta này! Thật hư ngụy là gia chủ Citta này! Thật hư vọng là gia chủ Citta này!’
Idāneva ca pana mayaṃ, bhante, bhāsitaṃ: ‘evaṃ ājānāma idaṃ bhavanto passantu, yāva anujuko cāyaṃ citto gahapati, yāva saṭho cāyaṃ citto gahapati, yāva māyāvī cāyaṃ citto gahapatī’ti.
Thưa Tôn giả, nếu lời nói đầu tiên của Tôn giả là chơn chánh, thời lời nói sau của Tôn giả là hư ngụy.
Sace te, bhante, purimaṃ saccaṃ, pacchimaṃ te micchā.
Thưa Tôn giả, nếu lời nói sau của Tôn giả là chơn chánh, thời lời nói đầu của Tôn giả là hư ngụy.
Sace pana te, bhante, purimaṃ micchā, pacchimaṃ te saccaṃ.
Thưa Tôn giả, có mười câu hỏi hợp lý này, nếu Tôn giả hiểu ý nghĩa của chúng, thời Tôn giả đấm trả tôi một đấm cùng với chúng Nigaṇṭha.
Ime kho pana, bhante, dasa sahadhammikā pañhā āgacchanti. Yadā nesaṃ atthaṃ ājāneyyāsi, atha maṃ paṭihareyyāsi saddhiṃ nigaṇṭhaparisāya.
Một câu hỏi, một câu giải thích, một câu trả lời.
Eko pañho, eko uddeso, ekaṃ veyyākaraṇaṃ.
Hai câu hỏi, hai câu giải thích, hai câu trả lời.
Dve pañhā, dve uddesā, dve veyyākaraṇāni.
Ba câu hỏi, ba câu giải thích, ba câu trả lời.
Tayo pañhā, tayo uddesā, tīṇi veyyākaraṇāni.
Bốn câu hỏi, bốn câu giải thích, bốn câu trả lời.
Cattāro pañhā, cattāro uddesā, cattāri veyyākaraṇāni.
Năm câu hỏi, năm câu giải thích, năm câu trả lời.
Pañca pañhā, pañca uddesā, pañca veyyākaraṇāni.
Sáu câu hỏi, sáu câu giải thích, sáu câu trả lời.
Cha pañhā, cha uddesā, cha veyyākaraṇāni.
Bảy câu hỏi, bảy câu giải thích, bảy câu trả lời.
Satta pañhā, satta uddesā, satta veyyākaraṇāni.
Tám câu hỏi, tám câu giải thích, tám câu trả lời.
Aṭṭha pañhā, aṭṭha uddesā, aṭṭha veyyākaraṇāni.
Chín câu hỏi, chín câu giải thích, chín câu trả lời.
Nava pañhā, nava uddesā, nava veyyākaraṇāni.
Mười câu hỏi, mười câu giải thích, mười câu trả lời”.
Dasa pañhā, dasa uddesā, dasa veyyākaraṇānī”ti.
Rồi gia chủ Citta không hỏi Nigaṇṭha Nāṭaputta mười câu hỏi hợp lý này, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho citto gahapati nigaṇṭhaṃ nāṭaputtaṃ ime dasa sahadhammike pañhe āpucchitvā uṭṭhāyāsanā pakkāmīti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt