Tương Ưng Bộ 41.7
Saṃyutta Nikāya 41.7
1. Phẩm Tâm
1. Cittavagga
Godatta
Godattasutta
Một thời Tôn giả Godatta trú ở Macchikāsaṇḍa, tại rừng Xoài.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā godatto macchikāsaṇḍe viharati ambāṭakavane.
Rồi gia chủ Citta đi đến Tôn giả Godatta; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Godatta rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yenāyasmā godatto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ godattaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Tôn giả Godatta nói với gia chủ Citta đang ngồi một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho cittaṃ gahapatiṃ āyasmā godatto etadavoca:
“Này Gia chủ, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát, vô tướng tâm giải thoát, những pháp này là khác ngôn từ, hay đồng nghĩa chỉ khác ngôn từ?”
“yā cāyaṃ, gahapati, appamāṇā cetovimutti, yā ca ākiñcaññā cetovimutti, yā ca suññatā cetovimutti, yā ca animittā cetovimutti, ime dhammā nānatthā nānābyañjanā udāhu ekatthā byañjanameva nānan”ti?
“Thưa tôn giả, có pháp môn, theo pháp môn ấy, các pháp này khác nghĩa, khác ngôn từ. Thưa tôn giả, cũng có pháp môn, theo pháp môn ấy, các pháp này đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ”.
“Atthi, bhante, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā ca. Atthi pana, bhante, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti.
“Nhưng, này Gia chủ, pháp môn nào, theo pháp môn ấy, các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ?
“Katamo ca, bhante, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā ca?
Ở đây, Thưa tôn giả, Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư.
Idha, bhante, bhikkhu mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.
Với tâm câu hữu với bi ...
Karuṇāsahagatena cetasā ...pe...
với tâm câu với hỷ ...
muditāsahagatena cetasā ...pe...
an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư.
upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ, tathā catutthaṃ.
Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Iti uddhamadho tiriyaṃ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṃ lokaṃ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.
Thưa tôn giả, đây gọi là vô lượng tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccati, bhante, appamāṇā cetovimutti.
Và Thưa tôn giả, như thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát?
Katamā ca, bhante, ākiñcaññā cetovimutti?
Ở đây, Tỷ-kheo vượt lên Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng: ‘Không có vật gì’, chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Idha, bhante, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma, ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati.
Thưa tôn giả, đây gọi là vô sở hữu tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccati, bhante, ākiñcaññā cetovimutti.
Và Thưa tôn giả, thế nào là không tâm giải thoát?
Katamā ca, bhante, suññatā cetovimutti?
Ở đây, Thưa tôn giả, Tỷ-kheo đi đến rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống và suy tư: ‘Cái này là trống không tự ngã hay ngã sở hữu’.
Idha, bhante, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati: ‘suññamidaṃ attena vā attaniyena vā’ti.
Thưa tôn giả, đây gọi là không tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccati, bhante, suññatā cetovimutti.
Và Thưa tôn giả, thế nào là vô tướng tâm giải thoát?
Katamā ca, bhante, animittā cetovimutti?
Ở đây, Thưa tôn giả, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định.
Idha, bhante, bhikkhu sabbanimittānaṃ amanasikārā animittaṃ cetosamādhiṃ upasampajja viharati.
Thưa tôn giả, đây gọi là vô tướng tâm giải thoát.
Ayaṃ vuccati, bhante, animittā cetovimutti.
Ðây là pháp môn, Thưa tôn giả, theo pháp môn ấy, các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ.
Ayaṃ kho, bhante, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā ca.
Và Thưa tôn giả, pháp môn nào, theo pháp môn ấy, các pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ?
Katamo ca, bhante, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva nānaṃ?
Thưa Tôn giả, tham dục làm sự đo lường, sân làm sự đo lường, si làm sự đo lường.
Rāgo, bhante, pamāṇakaraṇo, doso pamāṇakaraṇo, moho pamāṇakaraṇo.
Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt tận gốc rễ, bị làm như thân cây Ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
Thưa tôn giả, đối các vô lượng tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng.
Yāvatā kho, bhante, appamāṇā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati.
Nhưng bất động tâm giải thoát này trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.
Sā kho pana akuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena.
Tham dục, Thưa tôn giả, là một chướng ngại, sân là một chướng ngại, si là một chướng ngại.
Rāgo kho, bhante, kiñcanaṃ, doso kiñcanaṃ, moho kiñcanaṃ.
Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt tận gốc rễ, bị làm như thân cây Ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
Thưa tôn giả, đối với các vô sở hữu tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng.
Yāvatā kho, bhante, ākiñcaññā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati.
Nhưng bất động tâm giải thoát này được trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.
Sā kho pana akuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena.
Tham dục, Thưa tôn giả, tác thành tướng, sân tác thành tướng, si tác thành tướng.
Rāgo kho, bhante, nimittakaraṇo, doso nimittakaraṇo, moho nimittakaraṇo.
Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt đứt tận gốc rễ, bị làm như thân cây Ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.
Thưa tôn giả, đối với các vô tướng tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng.
Yāvatā kho, bhante, animittā cetovimuttiyo, akuppā tāsaṃ cetovimutti aggamakkhāyati.
Nhưng bất động tâm giải thoát này trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.
Sā kho pana akuppā cetovimutti suññā rāgena, suññā dosena, suññā mohena.
Ðây là pháp môn, Thưa tôn giả, do pháp môn ấy, các pháp này là đồng nghĩa chỉ khác ngôn từ”.
Ayaṃ kho, bhante, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti.
“Lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ! Khéo lợi ích thay cho Ông, này Cư sĩ! Vì rằng tuệ nhãn của Ông tiếp tục lời dạy thâm sâu của đức Phật”.
“Lābhā te, gahapati, suladdhaṃ te, gahapati. Yassa te gambhīre buddhavacane paññācakkhu kamatī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt