Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 42.1

Tương Ưng Bộ 42.1
Saṃyutta Nikāya 42.1

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Canda (Tàn bạo)
Caṇḍasutta

Tại Sāvatthī (Xá-vệ). Rồi thôn trưởng Caṇḍa bạch Thế Tôn:
Sāvatthinidānaṃ. Atha kho caṇḍo gāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho caṇḍo gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì ở đây, có người được gọi tên là tàn bạo? Do nhân gì, do duyên gì ở đây, có người được gọi là hiền lành?”
“ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacco caṇḍo caṇḍotveva saṅkhaṃ gacchati. Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo yena midhekacco sorato soratotveva saṅkhaṃ gacchatī”ti?

“Ở đây, này Thôn trưởng, có người tham dục chưa được đoạn tận.
“Idha, gāmaṇi, ekaccassa rāgo appahīno hoti.

Do tham dục chưa được đoạn tận, người ấy bị người khác làm cho phẫn nộ. Do bị người khác làm phẫn nộ nên phẫn nộ hiện hành.
Rāgassa appahīnattā pare kopenti, parehi kopiyamāno kopaṃ pātukaroti.

Người ấy do vậy được gọi là tàn bạo.
So caṇḍotveva saṅkhaṃ gacchati.

Sân chưa được đoạn tận.
Doso appahīno hoti.

Do sân chưa được đoạn tận, người ấy bị người khác làm cho phẫn nộ. Do bị người khác làm cho phẫn nộ nên phẫn nộ hiện hành.
Dosassa appahīnattā pare kopenti, parehi kopiyamāno kopaṃ pātukaroti.

Người ấy do vậy được gọi là tàn bạo.
So caṇḍotveva saṅkhaṃ gacchati.

Si chưa được đoạn tận.
Moho appahīno hoti.

Do si chưa được đoạn tận, người ấy bị người khác làm cho phẫn nộ. Do bị người khác làm cho phẫn nộ nên phẫn nộ hiện hành.
Mohassa appahīnattā pare kopenti, parehi kopiyamāno kopaṃ pātukaroti.

Người ấy do vậy được gọi là tàn bạo.
So caṇḍotveva saṅkhaṃ gacchati.

Này Thôn trưởng, đây là nhân, đây là duyên, ở đây, có người được gọi tên là tàn bạo.
Ayaṃ kho, gāmaṇi, hetu, ayaṃ paccayo yena midhekacco caṇḍo caṇḍotveva saṅkhaṃ gacchati.

Nhưng ở đây, này Thôn trưởng, có người tham dục được đoạn tận.
Idha pana, gāmaṇi, ekaccassa rāgo pahīno hoti.

Do tham dục được đoạn tận nên người ấy không bị người khác làm cho phẫn nộ. Do không bị người khác làm cho phẫn nộ nên phẫn nộ không hiện hành.
Rāgassa pahīnattā pare na kopenti, parehi kopiyamāno kopaṃ na pātukaroti.

Người ấy do vậy được gọi là hiền lành.
So soratotveva saṅkhaṃ gacchati.

Sân được đoạn tận.
Doso pahīno hoti.

Do sân đã được đoạn tận nên người ấy không bị người khác làm cho phẫn nộ. Do không bị người khác làm cho phẫn nộ nên phẫn nộ không hiện hành.
Dosassa pahīnattā pare na kopenti, parehi kopiyamāno kopaṃ na pātukaroti.

Người ấy do vậy được gọi là hiền lành.
So soratotveva saṅkhaṃ gacchati.

Si đã được đoạn tận.
Moho pahīno hoti.

Do si đã đoạn tận nên người ấy không bị người khác làm cho phẫn nộ. Do không bị người khác làm cho phẫn nộ nên phẫn nộ không hiện hành.
Mohassa pahīnattā pare na kopenti, parehi kopiyamāno kopaṃ na pātukaroti.

Người ấy do vậy được gọi là hiền lành.
So soratotveva saṅkhaṃ gacchati.

Này Thôn trưởng, đây là nhân, đây là duyên, ở đây, có người được gọi tên là hiền lành”.
Ayaṃ kho, gāmaṇi, hetu ayaṃ paccayo yena midhekacco sorato soratotveva saṅkhaṃ gacchatī”ti.

Ðược nghe nói vậy, thôn trưởng Caṇḍa bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, caṇḍo gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai ‘có mắt có thể thấy sắc’.
“abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante. Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;

Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng.
Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!”
Upāsakaṃ maṃ bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt