Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 42.2

Tương Ưng Bộ 42.2
Saṃyutta Nikāya 42.2

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Tālapuṭa
Tālapuṭasutta

Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Rồi Tālapuṭa, nhà vũ kịch sư, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho tālapuṭo naṭagāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi một bên, vũ kịch sư Tālapuṭa bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ naṭānaṃ bhāsamānānaṃ:

‘Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṃ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pahāsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
“Alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ. Mā maṃ etaṃ pucchī”ti.

Lần thứ hai, vũ kịch sư Tālapuṭa bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ naṭānaṃ bhāsamānānaṃ:

‘Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṃ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pahāsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
“Alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ. Mā maṃ etaṃ pucchī”ti.

Lần thứ ba, vũ kịch sư Tālapuṭa bạch Thế Tôn:
Tatiyampi kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con có nghe các vị Ðạo sư, các vị Tổ sư thuở xưa nói về các nhà vũ kịch, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ naṭānaṃ bhāsamānānaṃ:

‘Ai là nhà vũ kịch, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṃ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pahāsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thật sự, Ta đã không chấp nhận và nói rằng:
“Addhā kho tyāhaṃ, gāmaṇi, na labhāmi:

‘Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.
‘alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ, mā maṃ etaṃ pucchī’ti.

Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.
Api ca tyāhaṃ byākarissāmi.

Này Thôn trưởng, đối với những loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng tham, còn bị lòng tham trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường, tập trung những pháp hấp dẫn, thời khiến lòng tham của họ càng tăng thịnh.
Pubbe kho, gāmaṇi, sattā avītarāgā rāgabandhanabaddhā. Tesaṃ naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe ye dhammā rajanīyā te upasaṃharati bhiyyoso mattāya.

Này Thôn trưởng, đối với những loại hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng sân, còn bị lòng sân trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến sân, thời khiến cho lòng sân của họ càng tăng thịnh.
Pubbe kho, gāmaṇi, sattā avītadosā dosabandhanabaddhā. Tesaṃ naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe ye dhammā dosanīyā te upasaṃharati bhiyyoso mattāya.

Này Thôn trưởng, đối với loài hữu tình thuở trước chưa đoạn trừ lòng si, còn bị lòng si trói buộc, nếu nhà vũ kịch trên sân khấu hay trong kịch trường tập trung những pháp liên hệ đến si, thời khiến cho lòng si của họ càng tăng thịnh.
Pubbe kho, gāmaṇi, sattā avītamohā mohabandhanabaddhā. Tesaṃ naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe ye dhammā mohanīyā te upasaṃharati bhiyyoso mattāya.

Người ấy tự mình đắm say, phóng dật, làm người khác đắm say và phóng dật, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong địa ngục Hý tiếu.
So attanā matto pamatto pare madetvā pamādetvā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pahāso nāma nirayo tattha upapajjati.

Nếu người ấy có (tà) kiến như sau:
Sace kho panassa evaṃdiṭṭhi hoti:

‘Người vũ kịch nào, trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṃ hāseti rameti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pahāsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti,

Như vậy là tà kiến.
sāssa hoti micchādiṭṭhi.

Ai rơi vào tà kiến, này Thôn trưởng, Ta nói rằng người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: một là địa ngục, hai là súc sanh”.
Micchādiṭṭhikassa kho panāhaṃ, gāmaṇi, purisapuggalassa dvinnaṃ gatīnaṃ aññataraṃ gatiṃ vadāmi— nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā”ti.

Khi được nói vậy, vũ kịch sư Tālapuṭa phát khóc và rơi nước mắt.
Evaṃ vutte, tālapuṭo naṭagāmaṇi parodi assūni pavattesi.

“Chính vì vậy, này Thôn trưởng, Ta đã không chấp nhận và nói:
“Etaṃ kho tyāhaṃ, gāmaṇi, nālatthaṃ:

‘Thôi vừa rồi, này Thôn trưởng. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.”
‘alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī’”ti.

“Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy.
“Nāhaṃ, bhante, etaṃ rodāmi yaṃ maṃ bhagavā evamāha;

Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Ðạo sư, các Tổ sư vũ kịch thời trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn lầm lạc con rằng:
api cāhaṃ, bhante, pubbakehi ācariyapācariyehi naṭehi dīgharattaṃ nikato vañcito paluddho:

‘Người vũ kịch nào trên sân khấu hay giữa kịch trường, với các điệu bộ giả sự thật, làm quần chúng vui cười, thích thú; người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên hay cười’.”
‘yo so naṭo raṅgamajjhe samajjamajjhe saccālikena janaṃ hāseti rameti so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā pahāsānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’”ti.

“Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn! Thật là vi diệu, bạch Thế Tôn!
“Abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante.

Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai ‘có mắt có thể thấy sắc’.
Seyyathāpi, bhante, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;

Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
evamevaṃ bhagavatā anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Bạch Thế Tôn, con nay xin quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới!”
Esāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Labheyyāhaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadan”ti.

Vũ kịch sư Tālapuṭa được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới.
Alattha kho tālapuṭo naṭagāmaṇi bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha upasampadaṃ.

Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Tālapuṭa ... trở thành một vị A-la-hán nữa.
Acirūpasampanno ca panāyasmā tālapuṭo ...pe... arahataṃ ahosīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt