Tương Ưng Bộ 42.3
Saṃyutta Nikāya 42.3
1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga
Yodhajivo (Kẻ chiến đấu)
Yodhājīvasutta
Rồi chiến đấu sư Yodhàjivo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, chiến đấu sư bạch Thế Tôn:
Atha kho yodhājīvo gāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ...pe... ekamantaṃ nisinno kho yodhājīvo gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:
“Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các chiến tướng, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ yodhājīvānaṃ bhāsamānānaṃ:
‘Vị chiến tướng nào trong chiến trường, hăng say, tinh tấn; do hăng hay tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại; vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.
‘yo so yodhājīvo saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.
Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?
“Thôi vừa rồi, này chiến đấu sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
“Alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī”ti.
Lần thứ hai ...
Dutiyampi kho ...pe...
Lần thứ ba, chiến đấu sư bạch Thế Tôn:
tatiyampi kho yodhājīvo gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, con được nghe các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các chiến tướng, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ yodhājīvānaṃ bhāsamānānaṃ:
‘Vị chiến tướng nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.
‘yo so yodhājīvo saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.
Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?
“Thật sự, Ta đã không chấp nhận và nói rằng: ‘Thôi vừa rồi, này chiến đấu sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.
“Addhā kho tyāhaṃ, gāmaṇi, na labhāmi: ‘alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī’ti.
Tuy vậy, Ta sẽ trả lời.
Api ca tyāhaṃ byākarissāmi.
Này chiến đấu sư, đối với chiến tướng nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn, tâm của vị ấy trước đó phải có những ý nghĩ thấp kém, ác ý, ác nguyện như sau:
Yo so, gāmaṇi, yodhājīvo saṅgāme ussahati vāyamati, tassa taṃ cittaṃ pubbe gahitaṃ dukkaṭaṃ duppaṇihitaṃ:
‘Mong rằng các loài hữu tình ấy bị giết, bị bắt, bị tàn sát, bị tàn hại!’, hay: ‘Mong họ chớ có tồn tại!’ Do vị ấy hăng hái, tinh tấn như vậy, nếu vị ấy bị người khác tàn sát, đánh bại, thời người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào địa ngục (tên là Sarājita).
‘ime sattā haññantu vā bajjhantu vā ucchijjantu vā vinassantu vā mā vā ahesuṃ iti vā’ti. Tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti; so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajito nāma nirayo tattha upapajjatīti.
Nếu người ấy có tà kiến như sau: ‘Vị chiến tướng nào giữa chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.
Sace kho panassa evaṃ diṭṭhi hoti: ‘yo so yodhājīvo saṅgāme ussahati vāyamati tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti,
Như vậy là tà kiến. Ai rơi vào tà kiến này, này chiến đấu sư, Ta nói rằng, người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: Một là địa ngục, hai là súc sanh”.
sāssa hoti micchādiṭṭhi. Micchādiṭṭhikassa kho panāhaṃ, gāmaṇi, purisapuggalassa dvinnaṃ gatīnaṃ aññataraṃ gatiṃ vadāmi— nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā”ti.
Khi được nói vậy, vị chiến đấu sư phát khóc, rơi nước mắt.
Evaṃ vutte, yodhājīvo gāmaṇi parodi, assūni pavattesi.
“Chính vì vậy, này chiến đấu sư, Ta không chấp nhận và nói: ‘Thôi vừa rồi, này chiến đấu sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.”
“Etaṃ kho tyāhaṃ, gāmaṇi, nālatthaṃ: ‘alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī’”ti.
“Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy.
“Nāhaṃ, bhante, etaṃ rodāmi yaṃ maṃ bhagavā evamāha;
Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Ðạo sư, các Tổ sư, các chiến tướng thuở trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn con lầm lạc, nói rằng:
api cāhaṃ, bhante, pubbakehi ācariyapācariyehi yodhājīvehi dīgharattaṃ nikato vañcito paluddho:
‘Ai là người chiến tướng giữa các chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.”
‘yo so yodhājīvo saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’”ti.
“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! ... Từ nay cho đến mệnh chung con trọn đời quy ngưỡng!”
“Abhikkantaṃ, bhante ...pe... ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt