Tương Ưng Bộ 48.49
Saṃyutta Nikāya 48.49
5. Phẩm Về Già
5. Jarāvagga
Pindolo (Kẻ tìm tòi các đống rác)
Piṇḍolabhāradvājasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita.
ekaṃ samayaṃ bhagavā kosambiyaṃ viharati ghositārāme.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja tuyên bố với chánh trí như sau:
Tena kho pana samayena āyasmatā piṇḍolabhāradvājena aññā byākatā hoti:
“Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Ta rõ biết như vậy”.
“khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī”ti.
Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:
“Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja đã tuyên bố với chánh trí như sau:
“Āyasmatā, bhante, piṇḍolabhāradvājena aññā byākatā:
‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Ta rõ biết như vậy’.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmīti.
Do thấy lý do gì, bạch Thế Tôn, Tôn giả Piṇḍolabhāradvāja lại tuyên bố với chánh trí rằng:
Kiṃ nu kho, bhante, atthavasaṃ sampassamānena āyasmatā piṇḍolabhāradvājena aññā byākatā:
“Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Ta rõ biết như vậy”.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti?
Do tu tập, do làm cho sung mãn ba căn, này các Tỷ-kheo, khiến Tỷ-kheo Piṇḍolabhāradvāja tuyên bố với chánh trí rằng:
“Tiṇṇannaṃ kho, bhikkhave, indriyānaṃ bhāvitattā bahulīkatattā piṇḍolabhāradvājena bhikkhunā aññā byākatā:
‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Ta rõ biết như vậy’.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmīti.
Ba căn ấy là gì?
Katamesaṃ tiṇṇannaṃ?
Niệm căn, định căn, tuệ căn.
Satindriyassa, samādhindriyassa, paññindriyassa—
Chính do tu tập, do làm cho sung mãn ba căn này, này các Tỷ-kheo, khiến cho Tỷ-kheo Piṇḍolabhāradvāja đã tuyên bố với chánh trí rằng:
Imesaṃ kho, bhikkhave, tiṇṇannaṃ indriyānaṃ bhāvitattā bahulīkatattā piṇḍolabhāradvājena bhikkhunā aññā byākatā:
‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Ta rõ biết như vậy’.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmīti.
Và này các Tỷ-kheo, ba căn này, chúng đi đến tận cùng ở đâu?
Imāni ca, bhikkhave, tīṇindriyāni kimantāni?
Tận cùng đi đến đoạn diệt.
Khayantāni.
Ði đến đoạn diệt cái gì?
Kissa khayantāni?
Sanh già và chết.
Jātijarāmaraṇassa.
Vì thấy sanh già và chết đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, nên Tỷ-kheo Piṇḍolabhāradvāja đã tuyên bố với chánh trí rằng:
‘Jātijarāmaraṇaṃ khayan’ti kho, bhikkhave, sampassamānena piṇḍolabhāradvājena bhikkhunā aññā byākatā:
‘Ta rõ biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’.”
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāmī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt