Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 48.53

Tương Ưng Bộ 48.53
Saṃyutta Nikāya 48.53

6. Phẩm Thứ Sáu
6. Sūkarakhatavagga

Hữu Học
Sekhasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, tại khu vườn Ghosita.
ekaṃ samayaṃ bhagavā kosambiyaṃ viharati ghositārāme.

Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Có pháp môn nào, này các Tỷ-kheo, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo hữu học đứng trên hữu học địa có thể rõ biết: ‘Tôi là bậc hữu học’, Tỷ-kheo vô học đứng trên vô học địa có thể rõ biết: ‘Tôi là bậc vô học’?”
“atthi nu kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma sekho bhikkhu sekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘sekhosmī’ti pajāneyya, asekho bhikkhu asekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘asekhosmī’ti pajāneyyā”ti?

“Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản …”
“Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā ...pe...

“Có pháp môn, này các Tỷ-kheo, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo hữu học đứng trên hữu học địa có thể rõ biết: ‘Tôi là bậc hữu học’, Tỷ-kheo vô học đứng trên vô học địa, có thể rõ biết: ‘Tôi là bậc vô học’.
“atthi, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma sekho bhikkhu sekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘sekhosmī’ti pajāneyya, asekho bhikkhu asekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘asekhosmī’ti pajāneyya.

Và này các Tỷ-kheo, pháp môn ấy là gì, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo hữu học trú trên hữu học địa rõ biết: ‘Tôi là bậc hữu học’?
Katamo ca, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma sekho bhikkhu sekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘sekhosmī’ti pajānāti?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học như thật rõ biết: ‘Ðây là khổ’, như thật rõ biết: ‘Ðây là khổ tập khởi’, như thật rõ biết: ‘Ðây là khổ đoạn diệt’, như thật rõ biết: ‘Ðây là con đường đưa đến khổ đoạn diệt’.
Idha, bhikkhave, sekho bhikkhu ‘idaṃ dukkhan’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti—

Ðây là pháp môn, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo hữu học đứng trên hữu học địa rõ biết: ‘Tôi là bậc hữu học’.
ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma sekho bhikkhu sekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘sekhosmī’ti pajānāti.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học suy nghĩ như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sekho bhikkhu iti paṭisañcikkhati:

‘Ngoài Tăng chúng này, có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể thuyết pháp thực như vậy, chân như vậy, như thị như vậy, như Thế Tôn hay không?’
‘atthi nu kho ito bahiddhā añño samaṇo vā brāhmaṇo vā yo evaṃ bhūtaṃ tacchaṃ tathaṃ dhammaṃ deseti yathā bhagavā’ti?

Và vị ấy rõ biết như sau:
So evaṃ pajānāti:

‘Ngoài Tăng chúng này, không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể thuyết pháp thực như vậy, chân như vậy, như thị như vậy, như Thế Tôn’.
‘natthi kho ito bahiddhā añño samaṇo vā brāhmaṇo vā yo evaṃ bhūtaṃ tacchaṃ tathaṃ dhammaṃ deseti yathā bhagavā’ti.

Ðây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo hữu học đứng trên hữu học địa rõ biết: ‘Tôi là bậc hữu học’.
Ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma sekho bhikkhu sekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘sekhosmī’ti pajānāti.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hữu học rõ biết năm căn:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sekho bhikkhu pañcindriyāni pajānāti—

Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
saddhindriyaṃ, vīriyindriyaṃ, satindriyaṃ, samādhindriyaṃ, paññindriyaṃ.

Nhưng về sanh thú, về tối thắng, về quả, về mục đích của chúng, vị ấy không có thể trú, tự thân thông đạt được, và không thể với trí tuệ, thông suốt chúng và thấy chúng rõ ràng.
Yaṅgatikāni yaṃparamāni yaṃphalāni yaṃpariyosānāni. Na heva kho kāyena phusitvā viharati; paññāya ca ativijjha passati.

Ðây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo hữu học đứng trên hữu học địa rõ biết: ‘Tôi là bậc hữu học’.
Ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma sekho bhikkhu sekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘sekhosmī’ti pajānāti.

Và này các Tỷ-kheo, pháp môn ấy là gì, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo vô học đứng trên vô học địa rõ biết: ‘Ta là bậc vô học’?
Katamo ca, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma asekho bhikkhu asekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘asekhosmī’ti pajānāti?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vô học rõ biết năm căn:
Idha, bhikkhave, asekho bhikkhu pañcindriyāni pajānāti—

Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn.
saddhindriyaṃ, vīriyindriyaṃ, satindriyaṃ, samādhindriyaṃ, paññindriyaṃ.

với sanh thú của chúng, với tối thắng của chúng, với quả của chúng, với mục đích của chúng. Và vị ấy trú, với tự thân thông đạt được, và với trí tuệ thông suốt chúng và thấy chúng rõ ràng.
Yaṅgatikāni yaṃparamāni yaṃphalāni yaṃpariyosānāni. Kāyena ca phusitvā viharati; paññāya ca ativijjha passati.

Ðây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, y cứ pháp môn ấy, Tỷ-kheo vô học đứng trên vô học địa rõ biết: ‘Tôi là bậc vô học’.
Ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma asekho bhikkhu asekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘asekhosmī’ti pajānāti.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo vô học rõ biết sáu căn:
Puna caparaṃ, bhikkhave, asekho bhikkhu cha indriyāni pajānāti.

‘nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn.
‘Cakkhundriyaṃ, sotindriyaṃ, ghānindriyaṃ, jivhindriyaṃ, kāyindriyaṃ, manindriyaṃ—

Vị ấy rõ biết: ‘Sáu căn này được đoạn diệt, không có dư tàn, toàn bộ và toàn diện. Và sẽ không có sáu căn khác khởi lên, tại một chỗ nào và như thế nào’.
imāni kho cha indriyāni sabbena sabbaṃ sabbathā sabbaṃ aparisesaṃ nirujjhissanti, aññāni ca cha indriyāni na kuhiñci kismiñci uppajjissantī’ti pajānāti.

Vị ấy rõ biết như vậy. Ðây là pháp môn, này các Tỷ-kheo, do pháp môn ấy, Tỷ-kheo vô học đứng trên vô học địa, rõ biết: ‘Tôi là bậc vô học’.”
Ayampi kho, bhikkhave, pariyāyo yaṃ pariyāyaṃ āgamma asekho bhikkhu asekhabhūmiyaṃ ṭhito ‘asekhosmī’ti pajānātī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt