Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 5.3

Tương Ưng Bộ 5.3
Saṃyutta Nikāya 5.3

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Kisāgotamī
Kisāgotamīsutta

Nhân duyên ở Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṃ.

Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamì, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sāvatthi để khất thực.
Atha kho kisāgotamī bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi.

Khất thực ở Sāvatthi xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày; sau khi đi sâu vào rừng Andha, đến ngồi dưới một gốc cây để thiền ban ngày.
Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.

Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī; sau khi đi đến, liền nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī:
Atha kho māro pāpimā kisāgotamiyā bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena kisāgotamī bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā kisāgotamiṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Sao nàng như mất con,
Một mình, mặt ứa lệ.
Hay một mình vào rừng,
Ðể tìm đàn ông nào?”
“Kiṃ nu tvaṃ mataputtāva,
ekamāsi rudammukhī;
Vanamajjhagatā ekā,
purisaṃ nu gavesasī”ti.

Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?”
Atha kho kisāgotamiyā bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī”ti?

Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī suy nghĩ: “Ðây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó”.
Atha kho kisāgotamiyā bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī”ti.

Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī biết được: “Ðây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Atha kho kisāgotamī bhikkhunī “māro ayaṃ pāpimā” iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi:

“Con hại, đã qua rồi,
Ðàn ông đã chấm dứt,
Ta không sầu, không khóc,
Ta sợ gì các Ông?
“Accantaṃ mataputtāmhi,
purisā etadantikā;
Na socāmi na rodāmi,
na taṃ bhāyāmi āvuso.

Khắp nơi hỷ, ái đoạn,
Khối mê ám nát tan,
Chiến thắng quân thần chết,
Vô lậu, ta an trú.”
Sabbattha vihatā nandī,
tamokkhandho padālito;
Jetvāna maccuno senaṃ,
viharāmi anāsavā”ti.

Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Kisā Gotamī đã biết ta” nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṃ kisāgotamī bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt