Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 5.4

Tương Ưng Bộ 5.4
Saṃyutta Nikāya 5.4

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Vijayā
Vijayāsutta

Nhân duyên ở Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṃ.

Tỷ-kheo-ni Vijayā vào buổi sáng đắp y ... và ngồi xuống dưới một gốc cây để thiền ban ngày.
Atha kho vijayā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā ...pe... aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.

Ác Ma muốn làm cho Tỳ-kheo-ni Vijayā sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỳ-kheo-ni Vijayā; sau khi đến, nói lên bài kệ với Tỳ-kheo-ni Vijayā:
Atha kho māro pāpimā vijayāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vijayā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vijayaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Nàng vừa trẻ, vừa đẹp,
Ta vừa trẻ, vừa xuân,
Với cung đàn năm điệu,
Nàng cùng ta vui hưởng.”
“Daharā tvaṃ rūpavatī,
ahañca daharo susu;
Pañcaṅgikena turiyena,
ehayyebhiramāmase”ti.

Tỷ-kheo-ni Vijayā suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?”
Atha kho vijayāya bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī”ti?

Tỷ-kheo-ni Vijayā suy nghĩ: “Ðây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó.”
Atha kho vijayāya bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī”ti.

Tỷ-kheo-ni Vijayā suy nghĩ: “Ðây là Ác ma”, liền nói lên bài kệ với Ác ma:
Atha kho vijayā bhikkhunī “māro ayaṃ pāpimā” iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi:

“Sắc, tiếng, vị, hương, xúc,
Làm cho ý đam mê,
Ta nhường lại Ác ma,
Ta đâu có cần chúng.
“Rūpā saddā rasā gandhā,
phoṭṭhabbā ca manoramā;
Niyyātayāmi tuyheva,
māra nāhaṃ tenatthikā.

Với thân bất tịnh này,
Dễ hư hoại mong manh,
Ta bực phiền, tủi hổ,
Dục ái được đoạn tận.
Iminā pūtikāyena,
bhindanena pabhaṅgunā;
Aṭṭīyāmi harāyāmi,
kāmataṇhā samūhatā.

Họ sanh hưởng sắc giới,
Chúng vọng vô sắc giới,
Thiền chứng an tịnh ấy,
Mọi nơi, mê ám diệt.”
Ye ca rūpūpagā sattā,
ye ca arūpaṭṭhāyino;
Yā ca santā samāpatti,
sabbattha vihato tamo”ti.

Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Aijayā đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṃ vijayā bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt