Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 5.5

Tương Ưng Bộ 5.5
Saṃyutta Nikāya 5.5

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Uppalavaṇṇā
Uppalavaṇṇāsutta

Nhân duyên Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṃ.

Rồi Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā vào buổi sáng đắp y ... và đứng dưới gốc cây tala có trổ hoa.
Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā ...pe... aññatarasmiṃ supupphitasālarukkhamūle aṭṭhāsi.

Ác ma muốn làm cho Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā.
Atha kho māro pāpimā uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena uppalavaṇṇā bhikkhunī tenupasaṅkami;

Sau khi đến, Ác ma nói lên bài kệ này với Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā:
upasaṅkamitvā uppalavaṇṇaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Này nàng Tỷ-kheo-ni,
Dưới gốc cây Sāla,
Ðang nở nụ trăm hoa,
Nàng đến đứng một mình,
Nhan sắc Nàng tuyệt đẹp,
Không ai dám sánh bằng!
Tại đây Nàng đã đến,
Trong tư thế như vậy,
Nàng ngu dại kia ơi,
Không sợ cám dỗ sao?”
“Supupphitaggaṃ upagamma bhikkhuni,
Ekā tuvaṃ tiṭṭhasi sālamūle;
Na catthi te dutiyā vaṇṇadhātu,
Bāle na tvaṃ bhāyasi dhuttakānan”ti.

Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay là không phải người?”
Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī”ti?

Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā suy nghĩ: “Ðây là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định nên đã nói lên bài kệ đó.”
Atha kho uppalavaṇṇāya bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī”ti.

Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā biết được: “Ðây là Ác ma”, liền trả lời với bài kệ:
Atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī “māro ayaṃ pāpimā” iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi:

“Trăm ngàn người cám dỗ,
Có đến đây như Ông,
Mảy lông ta không động,
Ta không gì sợ hãi.
Ác ma, ta không sợ,
Ta đứng đây một mình.
“Sataṃ sahassānipi dhuttakānaṃ,
Idhāgatā tādisakā bhaveyyuṃ;
Lomaṃ na iñjāmi na santasāmi,
Na māra bhāyāmi tamekikāpi.

Ta có thể biến mất,
Hay vào bụng các Ông.
Ta đứng giữa hàng mi,
Ông không thấy ta được.
Esā antaradhāyāmi,
kucchiṃ vā pavisāmi te;
Pakhumantarikāyampi,
tiṭṭhantiṃ maṃ na dakkhasi.

Với tâm khéo khiếp phục,
Thần túc khéo tu trì,
Ta thoát mọi trói buộc,
Ta đâu có sợ Ông?
Này Hiền giả Ác ma!”
Cittasmiṃ vasībhūtāmhi,
iddhipādā subhāvitā;
Sabbabandhanamuttāmhi,
na taṃ bhāyāmi āvuso”ti.

Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Uppalavaṇṇā đã biết ta”, buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṃ uppalavaṇṇā bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt