Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 8.1

Tương Ưng Bộ 8.1
Saṃyutta Nikāya 8.1

1. Phẩm Vaṅgīsa
1. Vaṅgīsavagga

Xuất Ly
Nikkhantasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Tôn giả Vaṅgīsa trú ở Āḷavī, tại ngôi đền ở Aggāḷava, cùng với Tôn giả Nigrodhakappa, là vị giáo thọ sư.
ekaṃ samayaṃ āyasmā vaṅgīso āḷaviyaṃ viharati aggāḷave cetiye āyasmatā nigrodhakappena upajjhāyena saddhiṃ.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Vaṅgīsa là tân Tỷ-kheo, xuất gia chưa bao lâu, được ở lại để coi ngôi tịnh xá.
Tena kho pana samayena āyasmā vaṅgīso navako hoti acirapabbajito ohiyyako vihārapālo.

Rồi một số đông phụ nữ, sau khi trang điểm, đi đến khu vườn để xem tịnh xá.
Atha kho sambahulā itthiyo samalaṅkaritvā yena aggāḷavako ārāmo tenupasaṅkamiṃsu vihārapekkhikāyo.

Tôn giả Vaṅgīsa thấy các phụ nữ ấy, tâm sanh bất mãn, bị lòng dục quấy phá.
Atha kho āyasmato vaṅgīsassa tā itthiyo disvā anabhirati uppajjati, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa suy nghĩ:
Atha kho āyasmato vaṅgīsassa etadahosi:

“Thật bất lợi cho ta! Thật không lợi cho ta! Thật bất hạnh cho ta! Thật không may cho ta!
“alābhā vata me, na vata me lābhā; dulladdhaṃ vata me, na vata me suladdhaṃ;

Vì rằng tâm sanh bất mãn nơi ta, và ta bị lòng dục quấy phá. Làm thế nào ngay hiện tại có người khác có thể đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm khởi lên thỏa mãn cho ta?
yassa me anabhirati uppannā, rāgo cittaṃ anuddhaṃseti, taṃ kutettha labbhā, yaṃ me paro anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyya.

Hay là ta tự mình đoạn trừ bất mãn nơi ta và làm cho thỏa mãn khởi lên cho ta?”
Yannūnāhaṃ attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādeyyan”ti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa sau khi tự mình đoạn trừ bất mãn và làm cho thỏa mãn khởi lên, liền ngay trong lúc ấy, nói lên những bài kệ này:
Atha kho āyasmā vaṅgīso attanāva attano anabhiratiṃ vinodetvā abhiratiṃ uppādetvā tāyaṃ velāyaṃ imā gāthāyo abhāsi:

“Với ta đã xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Tâm tư nay chạy loạn,
Khởi lên từ đen tối.
“Nikkhantaṃ vata maṃ santaṃ,
agārasmānagāriyaṃ;
Vitakkā upadhāvanti,
pagabbhā kaṇhato ime.

Dầu con nhà thượng lưu,
Thiện xảo trong cung pháp,
Ngàn người bắn tứ phía,
Ta vẫn không bỏ chạy.
Uggaputtā mahissāsā,
sikkhitā daḷhadhammino;
Samantā parikireyyuṃ,
sahassaṃ apalāyinaṃ.

Nếu phụ nữ có đến,
Dầu nhiều hơn, đông hơn,
Sẽ không não loạn ta,
Vì ta trú Chánh pháp,
Sacepi etato bhiyyo,
āgamissanti itthiyo;
Neva maṃ byādhayissanti,
dhamme samhi patiṭṭhitaṃ.

Chính ta từng được nghe,
Phật, dòng họ mặt trời,
Thuyết giảng Niết-bàn đạo,
Ở đây ta ưa thích.
Sakkhī hi me sutaṃ etaṃ,
buddhassādiccabandhuno;
Nibbānagamanaṃ maggaṃ,
tattha me nirato mano.

Nếu ta trú như vậy,
Ác ma, Ông có đến,
Sở hành ta là vậy,
Ông đâu thấy đường ta.
Evañce maṃ viharantaṃ,
pāpima upagacchasi;
Tathā maccu karissāmi,
na me maggampi dakkhasī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt