Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 8.5

Tương Ưng Bộ 8.5
Saṃyutta Nikāya 8.5

1. Phẩm Vaṅgīsa
1. Vaṅgīsavagga

Khéo Nói
Subhāsitasutta

Tại Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.

Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo!”
“bhikkhavo”ti.

“Thưa vâng, Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:

“Ðầy đủ bốn đức tánh, này các Tỷ-kheo, lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chỉ trích. Thế nào là bốn?
“Catūhi, bhikkhave, aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti, no dubbhāsitā; anavajjā ca ananuvajjā ca viññūnaṃ. Katamehi catūhi?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói lời thiện thuyết, không nói lời ác thuyết, nói lời đúng pháp, không nói lời phi pháp, nói lời ái ngữ, không nói lời ác ngữ, nói lời chơn ngữ, không nói lời phi chơn.
Idha, bhikkhave, bhikkhu subhāsitaṃyeva bhāsati no dubbhāsitaṃ, dhammaṃyeva bhāsati no adhammaṃ, piyaṃyeva bhāsati no appiyaṃ, saccaṃyeva bhāsati no alikaṃ.

Ðầy đủ bốn đức tính này, này các Tỷ-kheo, lời nói được xem là thiện thuyết, không phải ác thuyết, vô tội và không bị người có trí chỉ trích.”
Imehi kho, bhikkhave, catūhi aṅgehi samannāgatā vācā subhāsitā hoti, no dubbhāsitā, anavajjā ca ananuvajjā ca viññūnan”ti.

Thế Tôn nói như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ, Ðạo Sư lại nói thêm:
Idaṃ vatvāna sugato athāparaṃ etadavoca satthā:

“Bậc Thiện Nhơn dạy rằng:
Thứ nhất là thiện thuyết,
Thứ hai nói đúng pháp,
Chớ nói lời phi pháp,
Thứ ba nói ái ngữ,
Chớ nói lời ác ngữ,
Thứ tư, nói chơn thực,
Chớ nói lời phi chơn”.
“Subhāsitaṃ uttamamāhu santo,
Dhammaṃ bhaṇe nādhammaṃ taṃ dutiyaṃ;
Piyaṃ bhaṇe nāppiyaṃ taṃ tatiyaṃ,
Saccaṃ bhaṇe nālikaṃ taṃ catutthan”ti.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng về Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā vaṅgīso uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ etadavoca:

“Thế Tôn, hãy soi sáng cho con! Thiện Thệ, hãy soi sáng cho con!”
“paṭibhāti maṃ, bhagavā, paṭibhāti maṃ, sugatā”ti.

Thế Tôn nói: “Này Vaṅgīsa, mong rằng Ông được soi sáng!”
“Paṭibhātu taṃ, vaṅgīsā”ti bhagavā avoca.

Rồi Tôn giả Vaṅgīsa trước mặt Thế Tôn, nói lên những bài kệ tán thán thích đáng:
Atha kho āyasmā vaṅgīso bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

“Ai nói lên lời gì,
Lời ấy không khổ mình,
Lại không làm hại người,
Lời ấy là thiện thuyết.
“Tameva vācaṃ bhāseyya,
yāyattānaṃ na tāpaye;
Pare ca na vihiṃseyya,
sā ve vācā subhāsitā.

Ai nói lời ái ngữ,
Lời nói khiến hoan hỷ,
Lời nói không ác độc,
Lời ấy là ái ngữ.
Piyavācaṃva bhāseyya,
yā vācā paṭinanditā;
Yaṃ anādāya pāpāni,
paresaṃ bhāsate piyaṃ.

Các lời nói chơn thật,
Là lời nói bất tử,
Như vậy là thường pháp,
Từ thuở thật ngàn xưa.
Bậc Thiện Nhân được xem,
An trú trên chơn thực,
Trên nghĩa và trên pháp,
Tiếng đồn là như vậy.
Saccaṃ ve amatā vācā,
esa dhammo sanantano;
Sacce atthe ca dhamme ca,
āhu santo patiṭṭhitā.

Lời đức Phật nói lên,
Ðạt an ổn Niết-bàn,
Chấm dứt mọi khổ đau,
Thật lời nói tối thượng”.
Yaṃ buddho bhāsate vācaṃ,
khemaṃ nibbānapattiyā;
Dukkhassantakiriyāya,
sā ve vācānamuttamā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt