Tương Ưng Bộ 9.2
Saṃyutta Nikāya 9.2
1. Phẩm Rừng
1. Vanavagga
Săn Sóc, Hầu Hạ
Upaṭṭhānasutta
Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy đang ngủ ngày.
Tena kho pana samayena so bhikkhu divāvihāragato supati.
Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo ấy, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo ấy. Sau khi đến, vị ấy nói lên những bài kệ cho Tỷ-kheo ấy:
Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāhi ajjhabhāsi:
“Tỷ-kheo, hãy thức dậy,
Sao Ông hãy còn nằm?
Ông được lợi ích gì,
Trong giấc ngủ của ông?
Kẻ bịnh, kẻ trúng tên,
Bị đánh sao ngủ được?
“Uṭṭhehi bhikkhu kiṃ sesi,
ko attho supitena te;
Āturassa hi kā niddā,
sallaviddhassa ruppato.
Vì lòng tin, xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà,
Tín ấy cần phát triển,
Chớ để ngủ chinh phục”.
Yāya saddhāya pabbajito,
agārasmānagāriyaṃ;
Tameva saddhaṃ brūhehi,
mā niddāya vasaṃ gamī”ti.
(Vị Tỷ-kheo):
“Các dục là vô thường,
Chỉ kẻ ngu say đắm,
Ðã giải thoát triền phược,
Không còn bị ái trước.
Hạnh xuất gia như vậy,
Sao để dục nhiệt não?
“Aniccā addhuvā kāmā,
yesu mandova mucchito;
Baddhesu muttaṃ asitaṃ,
kasmā pabbajitaṃ tape.
Ðã nhiếp phục dục ái,
Vượt thoát lưới vô minh,
Với chánh trí thanh tịnh,
Hạnh xuất gia như vậy,
Sao để dục nhiệt não?
Chandarāgassa vinayā,
avijjāsamatikkamā;
Taṃ ñāṇaṃ paramodānaṃ,
kasmā pabbajitaṃ tape.
Với minh phá vô minh,
Ðoạn diệt các lậu hoặc,
Không sầu, không ưu não,
Hạnh xuất gia như vậy,
Sao để dục nhiệt não?
Chetvā avijjaṃ vijjāya,
āsavānaṃ parikkhayā;
Asokaṃ anupāyāsaṃ,
kasmā pabbajitaṃ tape.
Tinh tấn và nhiệt tâm,
Thường dõng mãnh cầu tiến,
Hướng vọng đến Niết-bàn,
Hạnh xuất gia như vậy,
Sao để dục nhiệt não?”
Āraddhavīriyaṃ pahitattaṃ,
Niccaṃ daḷhaparakkamaṃ;
Nibbānaṃ abhikaṅkhantaṃ,
Kasmā pabbajitaṃ tape”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt