Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Kinh Tập
Sutta Nipāta
Kinh Alavaka
Āḷavakasutta
Như vầy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời Thế Tôn trú ở Alavi, tại trú xứ của Dạ-xoa Alavaka. Rồi Dạ-xoa Alavaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói với Thế Tôn:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā āḷaviyaṃ viharati āḷavakassa yakkhassa bhavane. Atha kho āḷavako yakkho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:
- Này Sa-môn, hãy đi ra.
"nikkhama, samaṇā"ti.
"- Lành thay, Hiền giả." Thế Tôn đi ra.
"Sādhāvuso"ti bhagavā nikkhami.
- Này Sa-môn, hãy đi vào.
"Pavisa, samaṇā"ti.
"- Lành thay, Hiền giả." Thế Tôn đi vào.
"Sādhāvuso"ti bhagavā pāvisi.
Lần thứ hai...Lần thứ ba, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:
Dutiyampi kho … pe … tatiyampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca:
- Này Sa-môn, hãy đi ra.
"nikkhama, samaṇā"ti.
"- Lành thay, Hiền giả." Thế Tôn đi ra.
"Sādhāvuso"ti bhagavā nikkhami.
- Này Sa-môn, hãy đi vào.
"Pavisa, samaṇā"ti.
"- Lành thay, Hiền giả." Thế Tôn đi vào.
"Sādhāvuso"ti bhagavā pāvisi.
Lần thứ tư, Dạ-xoa Alavaka nói với Thế Tôn:
Catutthampi kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ etadavoca:
- Này Sa-môn, hãy đi ra.
"nikkhama, samaṇā"ti.
- Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra cho Ông. Ông cần gì thì hãy làm.
"Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, nikkhamissāmi. Yaṃ te karaṇīyaṃ, taṃ karohī"ti.
- Này Sa-môn, ta sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài không trả lời cho ta, ta sẽ làm tâm trí Ngài điên loạn, hay ta sẽ bóp nát quả tim của Ngài, hay nắm chân của Ngài, ta sẽ quăng qua bờ sông bên kia sông Hằng.
"Pañhaṃ taṃ, samaṇa, pucchissāmi. Sace me na byākarissasi, cittaṃ vā te khipissāmi, hadayaṃ vā te phālessāmi, pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipissāmī"ti.
- Này Hiền giả, Ta không thấy một ai trong thế giới với chư Thiên, với Ác ma và với Phạm thiên, trong quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn với chư Thiên và loài Người, lại có thể làm tâm Ta điên loạn, hay bóp nát quả tim của Ta, hay nắm chân quăng Ta qua bên kia bờ sông Hằng. Tuy vậy, này Hiền giả, Ông cứ hỏi như ý Ông muốn.
"Na khvāhaṃ taṃ, āvuso, passāmi sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya yo me cittaṃ vā khipeyya hadayaṃ vā phāleyya pādesu vā gahetvā pāragaṅgāya khipeyya. Api ca tvaṃ, āvuso, puccha yadākaṅkhasī"ti.
Rồi Dạ-xoa với bài kệ nói với Thế Tôn:
Atha kho āḷavako yakkho bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
181. Ở đời, tài sản gì,
Tối thắng cho con người?
Cái gì khéo thực hành
Ðem lại chơn an lạc.
Cái gì trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng?
Nếp sống như thế nào,
Gọi nếp sống tối thắng?
181. "Kiṃ sūdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ,
Kiṃ su suciṇṇaṃ sukhamāvahāti;
Kiṃ su have sādutaraṃ rasānaṃ,
Kathaṃjīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ".
182. Ở đời này, lòng tin,
Tối thắng cho con người,
Chánh pháp khéo thực hiện,
Ðem lại chơn an lạc,
Sự thật trong các vị,
Là vị ngọt tối thượng,
Nếp sống với trí tuệ,
Là nếp sống tối thắng.
182. "Saddhīdha vittaṃ purisassa seṭṭhaṃ,
Dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti;
Saccaṃ have sādutaraṃ rasānaṃ,
Paññājīviṃ jīvitamāhu seṭṭhaṃ".
183. Thế nào vượt bộc lưu?
Thế nào vượt biển lớn?
Thế nào vượt qua khổ?
Thế nào thật thanh tịnh?
183. "Kathaṃ su tarati oghaṃ,
kathaṃ su tarati aṇṇavaṃ;
Kathaṃ su dukkhamacceti,
kathaṃ su parisujjhati".
184. Với tín, vượt bộc lưu,
Không phóng dật, vượt biển,
Tinh tấn, vượt đau khổ,
Với tuệ, được thanh tịnh.
184. "Saddhāya tarati oghaṃ,
appamādena aṇṇavaṃ;
Vīriyena dukkhamacceti,
paññāya parisujjhati".
185. Thế nào được trí tuệ?
Thế nào được tài sản?
Thế nào đạt danh xưng?
Thế nào cột bạn hữu?
Ðời này qua đời sau,
Thế nào, chết không sầu?
185. "Kathaṃ su labhate paññaṃ,
kathaṃ su vindate dhanaṃ;
Kathaṃ su kittiṃ pappoti,
kathaṃ mittāni ganthati;
Asmā lokā paraṃ lokaṃ,
kathaṃ pecca na socati".
186. Tin tưởng bậc La-hán,
Tin pháp, đạt Niết-bàn,
Khéo nghe, được trí tuệ,
Bậc trí, không phóng dật.
186. "Saddahāno arahataṃ,
dhammaṃ nibbānapattiyā;
Sussūsaṃ labhate paññaṃ,
appamatto vicakkhaṇo.
187. Làm thích đáng trách nhiệm,
Phấn đấu được tài sản,
Với sự thật được danh,
Bố thí cột bạn bè.
187. Patirūpakārī dhuravā,
uṭṭhātā vindate dhanaṃ;
Saccena kittiṃ pappoti,
dadaṃ mittāni ganthati.
188. Ai là người gia chủ,
Tin tưởng bốn pháp này,
Sự thật và Chánh pháp,
Kiên trì và bố thí,
Vị ấy sau khi chết,
Nhất định không sầu muộn.
188. Yassete caturo dhammā,
saddhassa gharamesino;
Saccaṃ dhammo dhiti cāgo,
sa ve pecca na socati.
189. Hãy hỏi các vị khác,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nếu có pháp nào khác
Ở đời, lại thắng hơn,
Sự thật và nhiếp phục,
Bố thí và kham nhẫn?
189. Iṅgha aññepi pucchassu,
puthū samaṇabrāhmaṇe;
Yadi saccā damā cāgā,
khantyā bhiyyodha vijjati".
190. Sao nay con rộng hỏi,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Nay con được rõ biết,
Hiện, vị lai hạnh phúc.
190. "Kathaṃ nu dāni puccheyyaṃ,
Puthū samaṇabrāhmaṇe;
Yohaṃ ajja pajānāmi,
Yo attho samparāyiko.
191. Vì hạnh phúc cho con,
Mong rằng bậc Giác Ngộ,
Hãy đi đến an trú,
Tại xứ Alavi.
Nay con đã rõ biết.
Chỗ nào thí, quả lớn.
191. Atthāya vata me buddho,
Vāsāyāḷavimāgamā;
Yohaṃ ajja pajānāmi,
Yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
192. Con sẽ đi bộ hành,
Làng này qua làng khác,
Thành này qua thành khác,
Ðảnh lễ bậc Giác Ngộ,
Ðảnh lễ thiện pháp tánh
Của Chánh pháp vi diệu.
192. So ahaṃ vicarissāmi,
Gāmā gāmaṃ purā puraṃ;
Namassamāno sambuddhaṃ,
Dhammassa ca sudhammatan"ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt