Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Kinh Tập
Sutta Nipāta
Kinh Pháp Bà-la-môn
Brāhmaṇadhammikasutta
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Rồi nhiều Bà-la-môn đại phú ở Kosala già yếu, cao niên, trưởng lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm.
Atha kho sambahulā kosalakā brāhmaṇamahāsālā jiṇṇā vuḍḍhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te brāhmaṇamahāsālā bhagavantaṃ etadavocuṃ:
- Thưa Tôn giả Gotama, hiện nay còn có những Bà-la-môn nào được thấy là theo pháp Bà-la-môn của những Bà-la-môn thời xưa?
"sandissanti nu kho, bho gotama, etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhamme"ti?
- Này các Bà-la-môn, hiện nay không còn thấy các Bà-la-môn theo pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa?
"Na kho, brāhmaṇā, sandissanti etarahi brāhmaṇā porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhamme"ti.
- Lành thay, Tôn giả Gotama hãy nói cho pháp Bà-la-môn của các Bà-la-môn thời xưa. Nếu Tôn giả Gotama không thấy gì phiền phức.
"Sādhu no bhavaṃ gotamo porāṇānaṃ brāhmaṇānaṃ brāhmaṇadhammaṃ bhāsatu, sace bhoto gotamassa agarū"ti.
- Vậy này các Bà-la-môn, hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói.
"Tena hi, brāhmaṇā, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī"ti.
- Thưa vâng, Tôn giả.
"Evaṃ, bho"ti.
Các Bà-la-môn đại phú ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
Kho te brāhmaṇamahāsālā bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:
284. Các ẩn sĩ thời xưa,
Chế ngự, sống khắc khổ,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Hành lý tưởng tự ngã.
284. "Isayo pubbakā āsuṃ,
saññatattā tapassino;
Pañca kāmaguṇe hitvā,
attadatthamacārisuṃ.
285. Phạm chí, không gia súc,
Không vàng bạc lúa gạo,
Học hỏi là tài sản,
Họ che chở hộ trì,
Kho tàng tối thượng ấy.
285. Na pasū brāhmaṇānāsuṃ,
na hiraññaṃ na dhāniyaṃ;
Sajjhāyadhanadhaññāsuṃ,
brahmaṃ nidhimapālayuṃ.
286. Ðồ ăn được sửa soạn,
Ðược đặt tại ngưỡng cửa,
Với lòng tin, họ soạn
Ðể cúng bậc Thánh cầu.
286. Yaṃ nesaṃ pakataṃ āsi,
dvārabhattaṃ upaṭṭhitaṃ;
Saddhāpakatamesānaṃ,
dātave tadamaññisuṃ.
287. Với vải mặc nhiều màu,
Với giường nằm trú xứ,
Từ quốc độ giàu có,
Họ đảnh lễ Phạm chí.
287. Nānārattehi vatthehi,
sayanehāvasathehi ca;
Phītā janapadā raṭṭhā,
te namassiṃsu brāhmaṇe.
288. Không bị ai xâm phạm
Là Phạm chí thời ấy,
Không bị ai chiến hại,
Họ được pháp che chở,
Không ai ngăn chặn họ,
Tại ngưỡng cửa gia đình.
288. Avajjhā brāhmaṇā āsuṃ,
ajeyyā dhammarakkhitā;
Na ne koci nivāresi,
kuladvāresu sabbaso.
289. Từ trẻ đến bốn tám,
Các Phạm chí thời xưa,
Họ sống hành Phạm hạnh,
Tầm cầu minh và hạnh.
289. Aṭṭhacattālīsaṃ vassāni,
Brahmacariyaṃ cariṃsu te;
Vijjācaraṇapariyeṭṭhiṃ,
Acaruṃ brāhmaṇā pure.
290. Các vị Bà-la-môn,
Không đến giai cấp khác,
Không mua người làm vợ,
Chung sống trong tình thương,
Họ đi đến với nhau,
Trong niềm hoan hỷ chung.
290. Na brāhmaṇā aññamagamuṃ,
napi bhariyaṃ kiṇiṃsu te;
Sampiyeneva saṃvāsaṃ,
saṅgantvā samarocayuṃ.
291. Ngoại trừ thời gian ấy,
Thời có thể thụ thai,
Là người Bà-la-môn,
Không đi đến giao cấu.
291. Aññatra tamhā samayā,
utuveramaṇiṃ pati;
Antarā methunaṃ dhammaṃ,
nāssu gacchanti brāhmaṇā.
292. Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới, học thức, nhu hòa,
Khắc khổ và hòa nhã,
Bất hại và nhẫn nhục.
292. Brahmacariyañca sīlañca,
ajjavaṃ maddavaṃ tapaṃ;
Soraccaṃ avihiṃsañca,
khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.
293. Vị tối thắng trong họ,
Là Phạm thiên, nỗ lực,
Vị ấy không giao hợp,
Cho đến trong cơn mộng.
293. Yo nesaṃ paramo āsi,
Brahmā daḷhaparakkamo;
Sa vāpi methunaṃ dhammaṃ,
Supinantepi nāgamā.
294. Ở đời, bậc có trí,
Học theo hạnh vị ấy,
Họ tán thán Phạm hạnh,
Giới đức và nhẫn nhục.
294. Tassa vattamanusikkhantā,
Idheke viññujātikā;
Brahmacariyañca sīlañca,
Khantiñcāpi avaṇṇayuṃ.
295. Họ xin cơm, sàng tọa,
Vải mặc, bơ và dầu,
Thâu nhiếp thật đúng pháp,
Họ tổ chức tế tự,
Trong lễ tế tự ấy,
Họ không giết bò cái.
295. Taṇḍulaṃ sayanaṃ vatthaṃ,
Sappitelañca yāciya;
Dhammena samodhānetvā,
Tato yaññamakappayuṃ.
296. Như mẹ và như cha,
Như anh, như bà con,
Bò là bạn tối thượng,
Từ chúng, sanh được vị.
296. Upaṭṭhitasmiṃ yaññasmiṃ,
Nāssu gāvo haniṃsu te;
Yathā mātā pitā bhātā,
Aññe vāpi ca ñātakā;
Gāvo no paramā mittā,
Yāsu jāyanti osadhā.
297. Bò cho ăn, cho sức,
Cho dung sắc, cho lạc
Biết được lợi ích này,
Họ không giết hại bò.
297. Annadā baladā cetā,
Vaṇṇadā sukhadā tathā;
Etamatthavasaṃ ñatvā,
Nāssu gāvo haniṃsu te.
298. Họ đoan trang thân lớn,
Có dung sắc, danh xưng,
Bản tánh là nhiệt tình,
Trong hành thiện dứt ác,
Họ còn sống ở đời,
Dân chúng hưởng an lạc.
298. Sukhumālā mahākāyā,
Vaṇṇavanto yasassino;
Brāhmaṇā sehi dhammehi,
Kiccākiccesu ussukā;
Yāva loke avattiṃsu,
Sukhamedhitthayaṃ pajā.
299. Giữa họ có đảo lộn,
Họ thấy vật nhỏ nhen.
Thấy huy hoàng nhà vua,
Thấy trang sức phụ nữ.
299. Tesaṃ āsi vipallāso,
Disvāna aṇuto aṇuṃ;
Rājino ca viyākāraṃ,
Nāriyo samalaṅkatā.
300. Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
Các trú xứ phòng ốc,
Khéo chia, khéo ngăn cách.
300. Rathe cājaññasaṃyutte,
Sukate cittasibbane;
Nivesane nivese ca,
Vibhatte bhāgaso mite.
301. Ðàn bà mập vây quanh,
Chúng người đẹp hầu hạ,
Bà-la-môn tham đắm,
Tài sản lớn của người.
301. Gomaṇḍalaparibyūḷhaṃ,
Nārīvaragaṇāyutaṃ;
Uḷāraṃ mānusaṃ bhogaṃ,
Abhijjhāyiṃsu brāhmaṇā.
302. Ðọc các bài kệ tụng,
Họ đến Okkàla,
Ngài được tài sản lớn,
Ngài được lúa gạo nhiều.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn.
302. Te tattha mante ganthetvā,
Okkākaṃ tadupāgamuṃ;
Pahūtadhanadhaññosi,
Yajassu bahu te vittaṃ;
Yajassu bahu te dhanaṃ.
303. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Về ngựa và về người,
Quăng con nêm, nước thánh,
Với các cửa then cài.
Lễ tế đàn này xong,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều loại tài sản.
303. Tato ca rājā saññatto,
Brāhmaṇehi rathesabho;
Assamedhaṃ purisamedhaṃ,
Sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggaḷaṃ;
Ete yāge yajitvāna,
Brāhmaṇānamadā dhanaṃ.
304. Bò, giường nằm, áo mặc,
Nữ nhân trang sức đẹp,
Các cỗ xe khéo làm,
Thắng với ngựa thuần thục,
Trang hoàng với tấm thảm,
Nhiều sắc lại nhiều màu.
304. Gāvo sayanañca vatthañca,
Nāriyo samalaṅkatā;
Rathe cājaññasaṃyutte,
Sukate cittasibbane.
305. Các trú xứ đẹp đẽ,
Khéo chia, khéo ngăn cách,
Ðầy các loại lúa gạo,
Họ cho các Phạm chí,
Rất nhiều là tài sản.
305. Nivesanāni rammāni,
Suvibhattāni bhāgaso;
Nānādhaññassa pūretvā,
Brāhmaṇānamadā dhanaṃ.
306. Ở đây, được tài sản,
Phạm chí thích cất chứa,
Lòng dục chúng thỏa mãn,
Khát ái càng tăng trưởng,
Họ lại đọc kệ tụng,
Họ đến Okkàka.
306. Te ca tattha dhanaṃ laddhā,
Sannidhiṃ samarocayuṃ;
Tesaṃ icchāvatiṇṇānaṃ,
Bhiyyo taṇhā pavaḍḍhatha;
Te tattha mante ganthetvā,
Okkākaṃ puna mupāgamuṃ.
307. Như nước, đất và vàng,
Tài sản và lúa gạo,
Cũng vậy là các bò,
Ðối với các loài, người.
Chúng là những vật dụng,
Cần thiết cho hữu tình.
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tài sản ngài lớn,
Hãy thiết lập tế đàn,
Vì tiền bạc ngài lớn?
307. Yathā āpo ca pathavī ca,
Hiraññaṃ dhanadhāniyaṃ;
Evaṃ gāvo manussānaṃ,
Parikkhāro so hi pāṇinaṃ;
Yajassu bahu te vittaṃ,
Yajassu bahu te dhanaṃ.
308. Rồi vua, bậc lãnh tụ,
Vương chủ các xa binh,
Ðược các Bà-la-môn,
Nhiếp phục và cảm hóa,
Tổ chức các tế đàn,
Trăm ngàn bò bị giết
308. Tato ca rājā saññatto,
Brāhmaṇehi rathesabho;
Nekā satasahassiyo,
Gāvo yaññe aghātayi.
309. Không phải với bàn chân,
Cũng không phải với sừng.
Con bò hại một ai,
Chúng được khéo nhiếp phục
Như con dê, con cừu,
Chúng cho nhiều ghè sữa,
Tuy vậy, vua ra lệnh,
Nắm sừng bắt lấy chúng,
Giết chúng bằng dao gươm.
309. Na pādā na visāṇena,
Nāssu hiṃsanti kenaci;
Gāvo eḷakasamānā,
Soratā kumbhadūhanā;
Tā visāṇe gahetvāna,
Rājā satthena ghātayi.
310. Rồi chư Thiên, Tổ tiên,
Ðế Thích, A-tu-la,
Với các hàng Dạ-xoa,
Ðồng thanh cùng la lớn,
Như vậy là phi pháp,
Khi gươm giết hại bò.
310. Tato devā pitaro ca,
Indo asurarakkhasā;
Adhammo iti pakkanduṃ,
Yaṃ satthaṃ nipatī gave.
311. Trước đã có ba bệnh,
Dục, ăn không đủ già,
Do giết hại muôn thú,
Chúng lên đến chín tám.
311. Tayo rogā pure āsuṃ,
Icchā anasanaṃ jarā;
Pasūnañca samārambhā,
Aṭṭhānavutimāgamuṃ.
312. Trượng phạt phi pháp này,
Từ xưa truyền đến nay,
Vật vô tội bị giết,
Còn người lễ tế đàn,
Thối thất khỏi Chánh pháp,
312. Eso adhammo daṇḍānaṃ,
Okkanto purāṇo ahu;
Adūsikāyo haññanti,
Dhammā dhaṃsanti yājakā.
313. Vậy tùy pháp cổ này,
Bị bậc trí khiển trách,
Chỗ nào lễ tế đàn,
Như vậy, được xem thấy,
Quần chúng liền chỉ trích,
Các vị lễ tế đàn.
313. Evameso aṇudhammo,
Porāṇo viññugarahito;
Yattha edisakaṃ passati,
Yājakaṃ garahatī jano.
314. Như vậy, pháp bị hoại,
Hạng Thủ-đà, Phệ-xá,
Bị phân ly chia rẽ,
Các hạng Sát-đế-lị
Bị chia năm, chẻ bảy
Còn vợ khinh rẽ chồng.
314. Evaṃ dhamme viyāpanne,
Vibhinnā suddavessikā;
Puthū vibhinnā khattiyā,
Patiṃ bhariyāvamaññatha.
315. Các Sát-lị hoàng tộc,
Các bà con Phạm thiên,
Cùng với hạng người khác,
Ðược gia tộc che chở,
Họ bỏ quên sanh chủng,
Họ rơi vào các dục.
315. Khattiyā brahmabandhū ca,
Ye caññe gottarakkhitā;
Jātivādaṃ nirākatvā,
Kāmānaṃ vasamanvagun"ti.
Khi nghe nói vậy, các Bà-la-môn đại phú ấy bạch Thế Tôn;
Evaṃ vutte, te brāhmaṇamahāsālā bhagavantaṃ etadavocuṃ:
- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, trình bày rõ những gì bị che kín chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, hay đem đèn sáng vào trong bóng tối đễ những ai có mắt có thể nhìn thấy sắc.
"Abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotama. seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya, ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti;
Cũng vậy, Pháp được Tôn giả Gotama với nhiều pháp môn trình bày giải thích. Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.
evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito. esāhaṃ, bho gotama, saputto sabhariyo sapariso sāmacco bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan"ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt