Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Sutta Nipāta 3.2

Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya

Kinh Tập
Sutta Nipāta

Kinh Tinh Cần
Padhānasutta

Thế Tôn:
(iti bhagavā):

425. Bên sông Ni-liên-thuyền,
Ta tinh cần tinh tấn,
Cố gắng, Ta thiền định,
Ðạt an ổn khổ ách.
425. "Taṃ maṃ padhānapahitattaṃ,
nadiṃ nerañjaraṃ pati;
Viparakkamma jhāyantaṃ,
yogakkhemassa pattiyā.

426. Ác ma đến gần Ta,
Nói lên lời từ mẫn,
Ông ốm không dung sắc,
Ông đã gần chết rồi.
426. Namucī karuṇaṃ vācaṃ,
bhāsamāno upāgami;
‘ Kiso tvamasi dubbaṇṇo,
santike maraṇaṃ tava.

427. Cả ngàn phần, Ông chết,
Chỉ một phần còn sống,
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.
427. Sahassabhāgo maraṇassa,
ekaṃso tava jīvitaṃ;
Jīva bho jīvitaṃ seyyo,
jīvaṃ puññāni kāhasi.

428. Như Ông sống Phạm hạnh,
Hãy đốt lửa tế tự,
Hãy chất chứa công đức,
Ông tinh tấn làm gì?
428. Carato ca te brahmacariyaṃ,
Aggihuttañca jūhato;
Pahūtaṃ cīyate puññaṃ,
Kiṃ padhānena kāhasi.

429. Khó thay, đường tinh tấn,
Khó làm, khó đạt được.
Ác ma đứng gần Phật,
Nói lên những kệ này.
429. Duggo maggo padhānāya,
dukkaro durabhisambhavo’";
Imā gāthā bhaṇaṃ māro,
aṭṭhā buddhassa santike.

430. Thế Tôn đã đáp lại
Lời Ác ma như sau:
Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây làm gì?
430. Taṃ tathāvādinaṃ māraṃ,
bhagavā etadabravi;
"Pamattabandhu pāpima,
yenatthena idhāgato.

431. Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến?
Với ai cần công đức,
Ác ma đáng nói chúng.
431. Aṇumattopi puññena,
Attho mayhaṃ na vijjati;
Yesañca attho puññena,
Te māro vattumarahati.

432. Ðây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy, Ta tinh tấn,
Sao Ngươi hỏi Ta sống?
432. Atthi saddhā tathā viriyaṃ,
paññā ca mama vijjati;
Evaṃ maṃ pahitattampi,
kiṃ jīvamanupucchasi.

433. Gió này làm khô cạn,
Cho đến các dòng sông,
Làm sao khô cạn máu,
Khi Ta sống tinh tấn?
433. Nadīnamapi sotāni,
ayaṃ vāto visosaye;
Kiñca me pahitattassa,
lohitaṃ nupasussaye.

434. Dầu máu có khô cạn,
Mật, đàm Ta khô cạn,
Dầu thịt có hủy hoại,
Tâm Ta càng tịnh tín,
Ta lại càng vững trú,
Niệm, tuệ và thiền định.
434. Lohite sussamānamhi,
Pittaṃ semhañca sussati;
Maṃsesu khīyamānesu,
Bhiyyo cittaṃ pasīdati;
Bhiyyo sati ca paññā ca,
Samādhi mama tiṭṭhati.

435. Do Ta sống như vậy,
Ðạt được thọ tối thượng,
Tâm không cầu các dục,
Nhìn chúng sanh thanh tịnh.
435. Tassa mevaṃ viharato,
Pattassuttamavedanaṃ;
Kāmesu nāpekkhate cittaṃ,
Passa sattassa suddhataṃ.

436. Dục, đội quân thứ nhất.
Thứ hai, gọi bất lạc,
Thứ ba, đói và khát,
Thứ tư, gọi tham ái.
436. Kāmā te paṭhamā senā,
Dutiyā arati vuccati;
Tatiyā khuppipāsā te,
Catutthī taṇhā pavuccati.

437. Năm, hôn trầm thụy miên,
Thứ sáu, gọi sợ hãi,
Thứ bảy, gọi nghi ngờ,
Tám, dèm pha ngoan cố.
437. Pañcamaṃ thinamiddhaṃ te,
Chaṭṭhā bhīrū pavuccati;
Sattamī vicikicchā te,
Makkho thambho te aṭṭhamo.

438. Lợi, danh và cung kính,
Danh vọng được tà vạy,
Ai tự đề cao mình,
Hủy báng các người khác.
438. Lābho siloko sakkāro,
Micchāladdho ca yo yaso;
Yo cattānaṃ samukkaṃse,
Pare ca avajānati.

439. Ôi, này Na-mu-ci,
Ðây là quân đội Ngươi,
Ðây quân đội chiến trận,
Của dòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
Ai thắng Ngươi, được lạc.
439. Esā namuci te senā,
Kaṇhassābhippahārinī;
Na naṃ asūro jināti,
Jetvā ca labhate sukhaṃ.

440. Ta mang cỏ munja,
Vững thay, đây đời sống,
Thà Ta chết chiến trận,
Tốt hơn, sống thất bại.
440. Esa muñjaṃ parihare,
Dhiratthu mama jīvitaṃ;
Saṅgāme me mataṃ seyyo,
Yañce jīve parājito.

441. Bị thấy đắm ở đây,
Số Sa-môn, Phạm chí,
Không biết được con đường,
Bậc giới đức thường đi.
441. Pagāḷhettha na dissanti,
Eke samaṇabrāhmaṇā;
Tañca maggaṃ na jānanti,
Yena gacchanti subbatā.

442. Thấy khắp quân đội dàn,
Ác ma trên lưng voi,
Ta bước vào chiến trận,
Không để ai chiếm đoạt.
442. Samantā dhajiniṃ disvā,
Yuttaṃ māraṃ savāhanaṃ;
Yuddhāya paccuggacchāmi,
Mā maṃ ṭhānā acāvayi.

443. Ðội ngũ quân nhà Ngươi,
Ðời này và chư Thiên,
Không một ai thắng nổi,
Ta đến Ngươi với tuệ,
Như hòn đá dập nát,
Chiếc bát chưa nung chín.
443. Yaṃ te taṃ nappasahati,
Senaṃ loko sadevako;
Taṃ te paññāya bhecchāmi,
Āmaṃ pattaṃva asmanā.

444. Nhiếp phục được tâm tư,
Khéo an trú chánh niệm,
Ta sẽ đi bộ hành,
Nước này qua nước khác,
Ðể huấn luyện rộng rãi,
Cho những người đệ tử.
444. Vasīkaritvā saṅkappaṃ,
Satiñca sūpatiṭṭhitaṃ;
Raṭṭhā raṭṭhaṃ vicarissaṃ,
Sāvake vinayaṃ puthū.

445. Không phóng dật, tinh cần,
Họ hành lời Ta dạy,
Dầu Ngươi không muốn vậy,
Họ vẫn sẽ đi tới,
Chỗ nào họ đi tới,
Chỗ ấy không sầu muộn.
445. Te appamattā pahitattā,
Mama sāsanakārakā;
Akāmassa te gamissanti,
Yattha gantvā na socare".

Ác-ma:
(iti māro pāpimā):

446. Bảy năm, ta bước theo,
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được lỗi lầm,
Nơi Thế Tôn chánh niệm.
446. "Satta vassāni bhagavantaṃ,
Anubandhiṃ padāpadaṃ;
Otāraṃ nādhigacchissaṃ,
Sambuddhassa satīmato.

447. Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống mỡ,
Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?
447. Medavaṇṇaṃva pāsāṇaṃ,
Vāyaso anupariyagā;
Apettha muduṃ vindema,
Api assādanā siyā.

448. Không tìm được gì ngọt,
Quạ từ đó bay đi,
Như quạ mổ hòn đá,
Ta bỏ Gotama.
448. Aladdhā tattha assādaṃ,
Vāyasetto apakkami;
Kākova selamāsajja,
Nibbijjāpema gotamaṃ".

449. Bị sầu muộn chi phối,
Cây đàn rơi khỏi nách,
Kẻ Dạ-xoa ác ý,
Tại đấy liền biến mất.
449. Tassa sokaparetassa,
Vīṇā kacchā abhassatha;
Tato so dummano yakkho,
Tatthevantaradhāyathāti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt