Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Kinh Tập
Sutta Nipāta
Kinh Màgha
Māghasutta
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, trên núi Gijjhakàta.
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
Rồi thanh niên Màgha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn:
Atha kho māgho māṇavo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho māgho māṇavo bhagavantaṃ etadavoca:
- Thưa Tôn giả Gotama, con là người bố thí, là thí chủ, rộng rãi, mong muốn được yêu cầu.
"Ahañhi, bho gotama, dāyako dānapati vadaññū yācayogo; dhammena bhoge pariyesāmi;
Con tầm cầu tài sản đúng pháp, sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, con cho một nguời, con cho hai người, con cho ba người, con cho bốn người, con cho năm người, con cho sáu người, con cho bảy người, con cho tám người, con cho chín người, con cho mười người,
dhammena bhoge pariyesitvā dhammaladdhehi bhogehi dhammādhigatehi ekassapi dadāmi dvinnampi tiṇṇampi catunnampi pañcannampi channampi sattannampi aṭṭhannampi navannampi dasannampi dadāmi,
con cho hai mươi người, con cho ba mươi người, con cho bốn mươi người, con cho năm mươi người, con cho một trăm người, con cho nhiều hơn nữa. Thưa Tôn giả Gotama, con cho như vậy, con bố thí như vậy, con có được nhiều phưóc đức không?
vīsāyapi tiṃsāyapi cattālīsāyapi paññāsāyapi dadāmi, satassapi dadāmi, bhiyyopi dadāmi. Kaccāhaṃ, bho gotama, evaṃ dadanto evaṃ yajanto bahuṃ puññaṃ pasavāmī"ti?
- Này thanh niên, Con cho như vậy, Con bố thí như vậy Con được nhiều phước đức. Này thanh niên, ai là người bố thí, là người thí chủ rộng rãi, mong muốn được yêu cầu, ai tầm cầu tài sản đúng pháp sau khi tầm cầu tài sản đúng pháp, với những tài sản thâu hoạch đúng pháp, tạo dựng đúng pháp, ngưòi ấy cho một người... cho một trăm người, cho nhiều hơn nữa, người ấy được nhiều công đức.
"Taggha tvaṃ, māṇava, evaṃ dadanto evaṃ yajanto bahuṃ puññaṃ pasavasi. Yo kho, māṇava, dāyako dānapati vadaññū yācayogo; dhammena bhoge pariyesati; dhammena bhoge pariyesitvā dhammaladdhehi bhogehi dhammādhigatehi ekassapi dadāti … pe … satassapi dadāti, bhiyyopi dadāti, bahuṃ so puññaṃ pasavatī"ti.
Rồi thanh niên Màgha nói lên lời Thế Tôn những bài kệ:
Atha kho māgho māṇavo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –
Thanh niên Màgha:
(iti māgho māṇavo):
487. Thanh niên Màgha thưa:
Tôn giả Gotama,
Con hỏi bậc Hiền hòa,
Mặc cà sa không nhà,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước.
Ở đây, thí người khác,
Ðồ ăn và đồ uống,
Tại đâu nên bố thí,
Ðể đồ cúng được tịnh.
487. "Pucchāmahaṃ gotamaṃ vadaññuṃ,
Kāsāyavāsiṃ agahaṃ carantaṃ;
Yo yācayogo dānapati gahaṭṭho,
Puññatthiko yajati puññapekkho;
Dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ,
Kathaṃ hutaṃ yajamānassa sujjhe".
Thế Tôn:
(māghāti bhagavā):
488. Thế Tôn bèn trả lời:
Này thanh niên Màgha,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác
Ðồ ăn và đồ uống,
Người ấy cần phải thí,
Người xứng đáng cúng dường.
488. "Yo yācayogo dānapati gahaṭṭho,
Puññatthiko yajati puññapekkho;
Dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ,
Ārādhaye dakkhiṇeyyebhi tādi".
Màgha:
(iti māgho māṇavo):
489. Thanh niên Màgha thưa:
Tôn giả Gotama,
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác
Ðồ ăn và đồ uống,
Thế Tôn hãy nói con
Nên cúng dường cho ai?
489. "Yo yācayogo dānapati gahaṭṭho,
Puññatthiko yajati puññapekkho;
Dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ,
Akkhāhi me bhagavā dakkhiṇeyye".
Thế Tôn:
(māghāti bhagavā):
490. Những ai sống ở đời,
Thật sự không nhiễm trước,
Hoàn toàn không sở hữu,
Tự ngã được nhiếp phục,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
490. "Ye ve asattā vicaranti loke,
Akiñcanā kevalino yatattā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
491. Những ai đã chặt đứt,
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải thoát,
Không dao động, mong cầu.
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
491. Ye sabbasaṃyojanabandhanacchidā,
Dantā vimuttā anīghā nirāsā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
492. Những ai đã giải thoát
Mọi kiết sử trói buộc,
Nhiếp phục được giải thoát,
Không khổ, không mong cầu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
492. Ye sabbasaṃyojanavippamuttā,
Dantā vimuttā anīghā nirāsā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
493. Vị nào đã đoạn tận,
Tham, sân và cả si,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
493. Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ,
Khīṇāsavā vūsitabrahmacariyā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
494. Ai sống không man trá,
Và không có kiêu mạn,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
494. Yesu na māyā vasati na māno,
Khīṇāsavā vūsitabrahmacariyā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
Những vị sống không tham,
Không ngã sở, không cầu,
Các lậu hoặc đã đoạn,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
Ye vītalobhā amamā nirāsā,
Khīṇāsavā vūsitabrahmacariyā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
495. Những ai đối với ai,
Không rơi vào hệ lụy,
Vượt khỏi được bộc lưu,
Du hành không ngã sở,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
495. Ye ve na taṇhāsu upātipannā,
Vitareyya oghaṃ amamā caranti;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
496. Với ai không tham ái,
Một vật gì ở đời,
Không ái hữu, phi hữu,
Ðời này hay đời sau,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
496. Yesaṃ taṇhā natthi kuhiñci loke,
Bhavābhavāya idha vā huraṃ vā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
497. Những ai từ bỏ dục,
Sống không có gia đình,
Khéo léo biết chế ngự,
Như con thoi, chính trực,
Ðúng thời, đối vị ấy.
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
497. Ye kāme hitvā agahā caranti,
Susaññatattā tasaraṃva ujjuṃ;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
498. Những ai, ly tham ái,
Các căn khéo định tĩnh,
Như mặt trăng thoát khỏi,
Nanh vuốt của Ràhu,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
498. Ye vītarāgā susamāhitindriyā,
Candova rāhuggahaṇā pamuttā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
499. Những ai được an tịnh,
Ly tham, ly phẩn nộ,
Sau khi bỏ đời này,
Không còn có sanh thú,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
499. Samitāvino vītarāgā akopā,
Yesaṃ gatī natthidha vippahāya;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
500. Ðoạn sanh tử đã xong,
Không còn chút dư tàn,
Nghi ngờ và phân vân,
Tất cả được nhiếp phục,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
500. Jahitvā jātimaraṇaṃ asesaṃ,
Kathaṅkathiṃ sabbamupātivattā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
501. Những ai sống ở đời
Tự mình làm hòn đảo,
Không có vật sở hữu,
Giải thoát được trọn vẹn,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự.
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
501. Ye attadīpā vicaranti loke,
Akiñcanā sabbadhi vippamuttā;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
502. Những ai ngay đời này,
Như thật rõ biết được,
Ðây đời sống cuối cùng,
Không còn có tái sanh,
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
502. Ye hettha jānanti yathā tathā idaṃ,
Ayamantimā natthi punabbhavoti;
Kālena tesu habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha.
503. Ai đạt tuệ tối thượng,
Ưa thiền, giữ chánh niệm,
Ðạt được sự giác ngộ,
Chỗ quy ngưỡng nhiều người.
Ðúng thời, đối vị ấy,
Hãy cúng đồ tế tự,
Vị Phạm chí cầu phước,
Hãy bố thí như vậy.
503. Yo vedagū jhānarato satīmā,
Sambodhipatto saraṇaṃ bahūnaṃ;
Kālena tamhi habyaṃ pavecche,
Yo brāhmaṇo puññapekkho yajetha".
Màgha:
(iti māgho māṇavo):
504. Thật sự câu con hỏi,
Không trống không, vô ích,
Thế Tôn nói cho con,
Những ai đáng cúng dường.
Ở đây Ngài đã biết,
Sự thật như thế nào.
Như vậy chính là pháp,
Ngài được biết như vậy.
504. "Addhā amoghā mama pucchanā ahu,
Akkhāsi me bhagavā dakkhiṇeyye;
Tvañhettha jānāsi yathā tathā idaṃ,
Tathā hi te vidito esa dhammo.
505. Rồi thanh niên Màgha,
Lại thưa thêm như sau:
Ai ưa muốn được cầu,
Là thí chủ, gia chủ,
Mong muốn được phước đức,
Bố thí, mong cầu phước,
Ở đây, thí người khác,
Ðồ ăn và đồ uống,
Thế Tôn hãy nói con,
Pháp tế tự hoàn toàn.
505. Yo yācayogo dānapati gahaṭṭho,
Puññatthiko yajati puññapekkho;
Dadaṃ paresaṃ idha annapānaṃ,
Akkhāhi me bhagavā yaññasampadaṃ".
Thế Tôn:
(māghāti bhagavā):
506. Thế Tôn nói Màgha,
Hãy tế đàn, tế tự,
Phải làm cho trong sạch,
Hoàn toàn mọi tâm tư,
Ðối người lễ tế đàn,
Ðối tượng là đồ cúng,
Hãy an trú ở đây,
Từ bỏ sự sân hận.
506. "Yajassu yajamāno māghāti bhagavā,
Sabbattha ca vippasādehi cittaṃ;
Ārammaṇaṃ yajamānassa yañño,
Ettha patiṭṭhāya jahāti dosaṃ.
507. Vị ấy đoạn tận tham,
Nhiếp phục cả sân hận,
Tu tập tâm từ bi,
Vô lượng khắp tất cả,
Với hạnh không phóng dật,
Ngày đêm luôn tu tập,
Cùng khắp mọi phương hướng,
Biến mãn vô lượng tâm.
507. So vītarāgo pavineyya dosaṃ,
Mettaṃ cittaṃ bhāvayamappamāṇaṃ;
Rattindivaṃ satatamappamatto,
Sabbā disā pharati appamaññaṃ".
Màgha:
(iti māgho māṇavo):
508. Ai trong sạch, giải thoát,
Ai còn bị trói buộc,
Ai với tự thân mình,
Ði đến Phạm Thiên giới?
Vì không biết, con hỏi.
Hãy nói lên, ẩn sĩ,
Mong Thế Tôn chứng giám,
Cho con ngày hôm nay,
Con được thấy Phạm thiên,
Ngài đối với chúng con,
Thật sự Ngài ngang bằng,
Với Phạm thiên không khác,
Ôi! Bậc chói hào quang,
Làm thế nào được sanh,
Lên cảnh giới Phạm thiên?
508. "Ko sujjhati muccati bajjhatī ca,
Kenattanā gacchati brahmalokaṃ;
Ajānato me muni brūhi puṭṭho,
Bhagavā hi me sakkhi brahmajjadiṭṭho;
Tuvañhi no brahmasamosi saccaṃ,
Kathaṃ upapajjati brahmalokaṃ jutima".
Thế Tôn:
(māghāti bhagavā):
509. Thế Tôn đáp Màgha:
Ai tổ chức tế đàn,
Ðầy đủ cả ba phần,
Tế đàn ấy tăng thịnh,
Với những người được cúng.
Xứng đáng được cúng dường.
Tế đàn như vậy xong,
Chơn chánh muốn được cầu,
Ta nói vị ấy sanh,
Tại cảnh giới Phạm thiên.
509. "Yo yajati tividhaṃ yaññasampadaṃ,
Ārādhaye dakkhiṇeyyebhi tādi;
Evaṃ yajitvā sammā yācayogo,
Upapajjati brahmalokanti brūmī"ti.
Khi nói được như vậy, thanh niên Màgha bạch Thế Tôn: "- Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama!... Từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng."
Evaṃ vutte, māgho māṇavo bhagavantaṃ etadavoca: "Abhikkantaṃ, bho gotama … pe … ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan"ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt