Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Sutta Nipāta 3.6

Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya

Kinh Tập
Sutta Nipāta

Kinh Sabhiya
Sabhiyasutta

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Evaṃ me sutaṃ:​ Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati veḷuvane kalandakanivāpe.

Lúc bấy giờ, du sĩ Sabhiya, một du sĩ ngoại đạo, được một Thiên nhân trước kia là bà con huyết thống, nói lên những câu hỏi sau đây: "Này Sabhiya, vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào, khi được hỏi những câu hỏi này, trả lời cho Ông, thời Ông hãy sống Phạm hạnh với người ấy".
Tena kho pana samayena sabhiyassa paribbājakassa purāṇasālohitāya devatāya pañhā uddiṭṭhā honti: "yo te, sabhiya, samaṇo vā brāhmaṇo vā ime pañhe puṭṭho byākaroti tassa santike brahmacariyaṃ careyyāsī"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya, sau khi học những câu hỏi ấy từ vị Thiên nhân ấy, phàm có những Sa-môn, Bà-la-môn nào có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư đồ chúng được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư, được quần chúng ái mộ,
Atha kho sabhiyo paribbājako tassā devatāya santike te pañhe uggahetvā ye te samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa,

như Pùrana Kassapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesa Kambali, Pakudha Kacàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàtaputta, Sabhiya đi đến các vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy.
seyyathidaṃ – pūraṇo kassapo makkhaligosālo ajito kesakambalo pakudho kaccāno sañcayo belaṭṭhaputto nigaṇṭho nāṭaputto, te upasaṅkamitvā te pañhe pucchati.

Các vị ấy, được du sĩ Sabhiya hỏi những câu hỏi ấy, không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Họ vặn hỏi trở lại du sĩ Sabhiya.
Te sabhiyena paribbājakena pañhe puṭṭhā na sampāyanti; asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti. Api ca sabhiyaṃyeva paribbājakaṃ paṭipucchanti.

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả, Sa-môn, Bà-la-môn ấy có hội chúng, có đồ chúng, bậc đạo sư, đồ chúng được biết đến, có danh vọng, có ngoại đạo sư, được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa... Nigantha Nàtaputta.
Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: "ye kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathidaṃ – pūraṇo kassapo … pe … nigaṇṭho nāṭaputto,

Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn họ vặn hỏi trở lại ta. Vậy ta hãy trở lui đời sống hạ liệt, thọ hưởng các dục".
te mayā pañhe puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti; api ca maññevettha paṭipucchanti. Yannūnāhaṃ hīnāyāvattitvā kāme paribhuñjeyyan"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Có Sa-môn Gotama này, có hội chúng, có đồ chúng, bậc lãnh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, sáng lập ra giáo phái, được quần chúng ái mộ, vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này.
Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: "ayampi kho samaṇo gotamo saṅghī ceva gaṇī ca gaṇācariyo ca ñāto yasassī titthakaro sādhusammato bahujanassa; yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe puccheyyan"ti.

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya suy nghĩ như sau: "Các vị Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã già, đã lớn tuổi, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi quá nửa đời người, đã đạt đến mức cuối tuổi thọ, là những bậc trưởng lão, được nhiều người biết đến, xuất gia đã lâu ngày, có hội chúng, có đồ chúng, bậc lãnh đạo hội chúng, được biết đến, có danh vọng, các ngoại đạo sư được quần chúng ái mộ, như Pùrana Kassapa... Nigantha Nàtaputta.
Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: "yepi kho te bhonto samaṇabrāhmaṇā jiṇṇā vuḍḍhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā therā rattaññū cirapabbajitā saṅghino gaṇino gaṇācariyā ñātā yasassino titthakarā sādhusammatā bahujanassa, seyyathidaṃ – pūraṇo kassapo … pe … nigaṇṭho nāṭaputto,

Các vị ấy được ta hỏi những câu hỏi, không có thể giải đáp. Do không có thể giải đáp, họ biểu lộ phẩn nộ, sân hận, bất mãn. Và họ vặn hỏi trở lại ta. Không biết Sa-môn Gotama có thể trả lời những câu hỏi này của ta. Sa-môn Gotama còn trẻ và mới được xuất gia".
tepi mayā pañhe puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā kopañca dosañca appaccayañca pātukaronti, api ca maññevettha paṭipucchanti; kiṃ pana me samaṇo gotamo ime pañhe puṭṭho byākarissati. Samaṇo hi gotamo daharo ceva jātiyā, navo ca pabbajjāyā"ti.

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya suy nghĩ như sau: "Không nên gạt bỏ, không nên khinh thường một Sa-môn vì vị ấy còn trẻ tuổi; nếu vị Sa-môn còn trẻ, nhưng vị ấy có đại thần, đại uy lực. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và hỏi những câu hỏi này".
Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: "Samaṇo kho daharoti na uññātabbo na paribhotabbo. Daharopi cesa samaṇo gotamo mahiddhiko hoti mahānubhāvo, yannūnāhaṃ samaṇaṃ gotamaṃ upasaṅkamitvā ime pañhe puccheyyan"ti.

Rồi du sĩ ngoại đạo Sabhiya bộ hành ra đi đến Ràjagaha, tiếp tục bộ hành, đi đến Vương Xá Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên du sĩ Sabhiya nói lên với Thế Tôn những bài kệ:
Atha kho sabhiyo paribbājako yena rājagahaṃ tena cārikaṃ pakkāmi. Anupubbena cārikaṃ caramāno yena rājagahaṃ veḷuvanaṃ kalandakanivāpo, yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho sabhiyo paribbājako bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi –

Sabhiyà:
(iti sabhiyo):

510. Sabhiya nói rằng:
Tôi đến, có nghi ngờ,
Hy vọng có thể hỏi
Những câu hỏi với Ngài.
Mong Ngài chấm dứt được,
Những câu hỏi cho tôi.
Những câu được tôi hỏi,
Hãy thứ lớp giải đáp.
510. "Kaṅkhī vecikicchī āgamaṃ,
Pañhe pucchituṃ abhikaṅkhamāno;
Tesantakaro bhavāhi pañhe me puṭṭho,
Anupubbaṃ anudhammaṃ byākarohi me".

Thế Tôn:
(iti bhagavā):

511. Thế Tôn đáp du sĩ:
Ông từ xa đi đến,
Hy vọng có thể hỏi,
Những câu hỏi với Ta,
Ta sẽ chấm dứt được,
Những câu hỏi cho Ông
Những câu được Ông hỏi,
Ta thứ lớp giải đáp.
511. "Dūrato āgatosi sabhiya,
Pañhe pucchituṃ abhikaṅkhamāno;
Tesantakaro bhavāmi pañhe te puṭṭho,
Anupubbaṃ anudhammaṃ byākaromi te.

512. Du sĩ Sabhiya,
Hãy hỏi Ta câu hỏi,
Tuỳ theo ý Ông muốn,
Ông hỏi câu hỏi nào,
Ta sẽ chấm dứt được,
Câu hỏi ấy cho Ông.
512. Puccha maṃ sabhiya pañhaṃ,
Yaṃ kiñci manasicchasi;
Tassa tasseva pañhassa,
Ahaṃ antaṃ karomi te"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Ta không bao giờ có được cơ hội, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn khác. Nay cơ hội này được Sa-môn Gotama tạo ra cho ta. Hân hoan, hoan hỷ, phấn chấn, hỷ lạc, Sabhiya hỏi Thế Tôn câu hỏi:
Atha kho sabhiyassa paribbājakassa etadahosi: "acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho. Yaṃ vatāhaṃ aññesu samaṇabrāhmaṇesu okāsakammamattampi nālatthaṃ taṃ me idaṃ samaṇena gotamena okāsakammaṃ katan"ti. Attamano pamudito udaggo pītisomanassajāto bhagavantaṃ pañhaṃ apucchi –

Sabhiyà:
(iti sabhiyo):

513. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì,
Ðược gọi là Tỷ-kheo?
Nhờ gì, gọi nhu hòa?
Thế nào gọi chế ngự?
Và phải như thế nào,
Ðược gọi bậc Giác ngộ?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
513. "Kiṃpattinamāhu bhikkhunaṃ,
Sorataṃ kena kathañca dantamāhu;
Buddhoti kathaṃ pavuccati,
Puṭṭho me bhagavā byākarohi".

Thế Tôn:
(sabhiyāti bhagavā):

514. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai chính với con đường,
Do tự mình tạo ra,
Ði đến sự tịch mịch,
Vượt qua các nghi hoặc,
Từ bỏ, đoạn tận hẳn
Cả hữu và phi hữu,
Phạm hạnh đã thành tựu,
Tái sanh đã đoạn tận,
Vị ấy được xứng danh,
Gọi là vị Tỷ-kheo.
514. "Pajjena katena attanā,
Parinibbānagato vitiṇṇakaṅkho;
Vibhavañca bhavañca vippahāya,
Vusitavā khīṇapunabbhavo sa bhikkhu.

515. Vị trú xả, chánh niệm,
Tại bất cứ chỗ nào,
Vị không làm hại ai,
Cùng khắp cả thế giới,
Vượt bộc lưu, tịnh ý,
Không có bị dao động,
Vị nào không đột khởi,
Vị ấy gọi nhu hòa.
515. Sabbattha upekkhako satimā,
Na so hiṃsati kañci sabbaloke;
Tiṇṇo samaṇo anāvilo,
Ussadā yassa na santi sorato so.

516. Vị nào có các căn,
Ðược huấn luyện tu tập,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị nào thông suốt được
Ðời này và đời sau,
Ðúng thời, nghi điều phục,
Vị ấy gọi chế ngự.
516. Yassindriyāni bhāvitāni,
Ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke;
Nibbijjha imaṃ parañca lokaṃ,
Kālaṃ kaṅkhati bhāvito sa danto.

517. Ai phân tích các kiếp,
Toàn diện và hoàn toàn,
Luân chuyển cả hai mặt,
Chết đi và sanh lại,
Bụi bặm được dứt sạch,
Không uế nhiễm, thanh tịnh,
Ðạt được sanh đoạn diệt,
Vị ấy gọi Phật-đà.
517. Kappāni viceyya kevalāni,
Saṃsāraṃ dubhayaṃ cutūpapātaṃ;
Vigatarajamanaṅgaṇaṃ visuddhaṃ,
Pattaṃ jātikhayaṃ tamāhu buddhan"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, hoan hỷ, hân hoạn, phấn khởi, phát sanh hỷ tâm, liền hỏi Thế Tôn thêm câu nữa.
Atha kho sabhiyo paribbājako bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā attamano pamudito udaggo pītisomanassajāto bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi –

Sabhiyà:
(iti sabhiyo):

518. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì,
Ðược gọi là Bà-la-môn?
Nhờ gì, gọi Sa-môn?
Thế nào là tắm sạch?
Và phải như thế nào?
Ðược gọi là voi chúa?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
518. "Kiṃpattinamāhu brāhmaṇaṃ,
Samaṇaṃ kena kathañca nhātakoti;
Nāgoti kathaṃ pavuccati,
Puṭṭho me bhagavā byākarohi".

Thế Tôn:
(sabhiyāti bhagavā):

519. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai loại khỏi ra ngoài,
Tất cả các ác pháp,
Không uế, khéo định tĩnh,
Kiên trì, vững an trú,
Vượt qua được luân hồi,
Hoàn toàn về mọi mặt,
Không y chỉ vị ấy,
Ðược gọi Bà-la-môn.
519. "Bāhitvā sabbapāpakāni,
Vimalo sādhusamāhito ṭhitatto;
Saṃsāramaticca kevalī so,
Asito tādi pavuccate sa brahmā.

520. Ðược an tịnh, tịch tịnh,
Ðoạn tận cả thiện ác,
Không cấu uế, rõ biết,
Ðời này và đời sau,
Chế ngự và nhiếp phục,
Cả vấn đề sanh tử,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi là Sa-môn.
520. Samitāvi pahāya puññapāpaṃ,
Virajo ñatvā imaṃ parañca lokaṃ;
Jātimaraṇaṃ upātivatto,
Samaṇo tādi pavuccate tathattā.

521. Ai gột sạch, tắm sạch
Tất cả các ác pháp,
Kể cả trong lẫn ngoài,
Khắp tất cả thế giới,
Giữa chư Thiên, loài Người,
Bị thời kiếp chi phối,
Không rơi vào thời kiếp,
Ðược gọi đã tắm sạch.
521. Ninhāya sabbapāpakāni,
Ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke;
Devamanussesu kappiyesu,
Kappaṃ neti tamāhu nhātakoti.

522. Ai không làm điều ác,
Mọi điều ác ở đời,
Tất cả các kiết sử,
Không dính mắc, trói buộc,
Khắp tất cả mọi nơi,
Không dính, không trói buộc,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi là voi chúa.
522. Āguṃ na karoti kiñci loke,
Sabbasaṃyoge visajja bandhanāni;
Sabbattha na sajjatī vimutto,
Nāgo tādi pavuccate tathattā"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya lại hỏi thêm câu nữa:
Atha kho sabhiyo paribbājako … pe … bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi –

Sabhiyà:
(iti sabhiyo):

523. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Thế nào chư Phật gọi
Vị chiến thắng đất ruộng,
Do gì, gọi là thiện?
Thế nào gọi bậc trí,
Và phải như thế nào
Ðược gọi là ẩn sĩ?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
523. "Kaṃ khettajinaṃ vadanti buddhā,
Kusalaṃ kena kathañca paṇḍitoti;
Muni nāma kathaṃ pavuccati,
Puṭṭho me bhagavā byākarohi".

Thế Tôn:
(sabhiyāti bhagavā):

524. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát nhiếp phục,
Ruộng đất thật toàn diện
Chư Thiên và loài Người,
Là đất ruộng Phạm thiên,
Giải thoát được trói buộc,
Cội gốc mọi đất ruộng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi thắng đất ruộng.
524. "Khettāni viceyya kevalāni,
Dibbaṃ mānusakañca brahmakhettaṃ;
Sabbakhettamūlabandhanā pamutto,
Khettajino tādi pavuccate tathattā.

525. Ai quán sát nhiếp phục,
Kho tàng thật toàn diện,
Chư Thiên và loài Người,
Là đất ruộng Phạm thiên,
Giải thoát được trói buộc,
Cội gốc mọi kho tàng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi vị thiện xảo.
525. Kosāni viceyya kevalāni,
Dibbaṃ mānusakañca brahmakosaṃ;
Sabbakosamūlabandhanā pamutto,
Kusalo tādi pavuccate tathattā.

526. Ai quán sát nhiếp phục,
Cả hai tâm và ý,
Cả nội và cả ngoại,
Về trí tuệ thanh tịnh,
Nhiếp phục chế ngự được,
Các pháp đen và trắng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi bậc Hiền trí,
526. Dubhayāni viceyya paṇḍarāni,
Ajjhattaṃ bahiddhā ca suddhipañño;
Kaṇhaṃ sukkaṃ upātivatto,
Paṇḍito tādi pavuccate tathattā.

527. Sau khi đã biết được,
Pháp bất thiện, pháp thiện,
Cả nội và cả ngoại,
Trong tất cả thế giới,
Vị ấy được cúng dường,
Chư Thiên và loài Người,
Vượt qua lưới trói buộc,
Vị ấy gọi ẩn sĩ.
527. Asatañca satañca ñatvā dhammaṃ,
Ajjhattaṃ bahiddhā ca sabbaloke;
Devamanussehi pūjanīyo,
Saṅgaṃ jālamaticca so munī"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya... lại hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:
Atha kho sabhiyo paribbājako … pe … bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi –

Sabhiyà:
(iti sabhiyo):

528. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì
Ðược gọi bậc có trí?
Nhờ gì, gọi tùy trí?
Thế nào xưng tinh tấn?
Thế nào được danh xưng,
Là vị đã thuần thục?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
528. "Kiṃpattinamāhu vedaguṃ,
Anuviditaṃ kena kathañca viriyavāti;
Ājāniyo kinti nāma hoti,
Puṭṭho me bhagavā byākarohi".

Thế Tôn:
(sabhiyāti bhagavā):

529. Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này Sabhiya,
Ai quán sát Vệ-đà,
Hoàn toàn và toàn diện,
Ðược Sa-môn, Phạm chí,
Ðạt được rất đầy đủ,
Vị ấy gọi ly tham,
Trong tất cả cảm thọ,
Do vượt qua Vệ-đà,
Ðược gọi bậc Vệ-đà?
529. "Vedāni viceyya kevalāni,
Samaṇānaṃ yānidhatthi brāhmaṇānaṃ;
Sabbavedanāsu vītarāgo,
Sabbaṃ vedamaticca vedagū so.

530. Do quán sát, quán triệt,
Các hý luận, danh sắc,
Kể cả nội và ngoại,
Về cội gốc bệnh hoạn,
Vị ấy thoát trói buộc,
Cội gốc các bệnh hoạn,
Vị đức tánh như vậy
Ðược gọi vị rõ biết
530. Anuvicca papañcanāmarūpaṃ,
Ajjhattaṃ bahiddhā ca rogamūlaṃ;
Sabbarogamūlabandhanā pamutto,
Anuvidito tādi pavuccate tathattā.

531. Vị ở đời từ bỏ
Tất cả các pháp ác,
Với tinh tấn vượt qua,
Mọi khổ đau địa ngục,
Vị ấy có tinh tấn,
Có tinh cần, siêng năng,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi vị có trí.
531. Virato idha sabbapāpakehi,
Nirayadukkhaṃ aticca viriyavāso;
So vīriyavā padhānavā,
Dhīro tādi pavuccate tathattā.

532. Với ai các trói buộc,
Bị bựt đứt, huỷ hoại,
Nguồn gốc các tham ái,
Vị ấy được giải thoát,
Khỏi tất cả gốc tham,
Vị đức tánh như vậy,
Ðược gọi vị thuần thục.
532. Yassassu lunāni bandhanāni,
Ajjhattaṃ bahiddhā ca saṅgamūlaṃ;
Sabbasaṅgamūlabandhanā pamutto,
Ājāniyo tādi pavuccate tathattā"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya ... lại hỏi Thế Tôn thêm câu hỏi nữa:
Atha kho sabhiyo paribbājako … pe … bhagavantaṃ uttariṃ pañhaṃ apucchi –

Sahiya:
(iti sabhiyo):

533. Sabhiya hỏi rằng:
Tôn giả Gotama,
Do đạt được những gì,
Ðược gọi vị được nghe?
Nhờ gì, gọi bậc Thánh?
Sở hành như thế nào,
Như thế nào được tên,
Là một người du sĩ?
Ðược con hỏi như vậy,
Mong Thế Tôn trả lời.
533. "Kiṃpattinamāhu sottiyaṃ,
Ariyaṃ kena kathañca caraṇavāti;
Paribbājako kinti nāma hoti,
Puṭṭho me bhagavā byākarohi".

Thế Tôn:
(sabhiyāti bhagavā):

534. Thế Tôn bèn đáp lại:
Hỡi này Sabhiya!
Do ở đời được nghe,
Thắng tri tất cả pháp,
Pháp có lỗi, không lỗi,
Phàm mọi pháp ở đời,
Là vị đã chiến thắng,
Ðoạn nghi, được giải thoát,
Trọn vẹn không dao động,
Ðược gọi, vị có nghe.
534. "Sutvā sabbadhammaṃ abhiññāya loke,
Sāvajjānavajjaṃ yadatthi kiñci;
Abhibhuṃ akathaṅkathiṃ vimuttaṃ,
Anighaṃ sabbadhimāhu sottiyoti.

535. Sau khi đoạn, chặt đứt,
Mọi lậu hoăc chấp trước,
Vị ấy sau khi biết
Không đi đến thai tạng,
Ðoạn trừ và từ bỏ,
Ba loại tưởng bùn nhơ,
Không đi vào thời kiếp,
Ðược gọi là bậc Thánh.
535. Chetvā āsavāni ālayāni,
Vidvā so na upeti gabbhaseyyaṃ;
Saññaṃ tividhaṃ panujja paṅkaṃ,
Kappaṃ neti tamāhu ariyoti.

536. Vị nào ở nơi đây,
Thành tựu các giới hạnh,
Thiện xảo mọi lãnh vực,
Rõ biết được Chánh Pháp,
Cùng khắp cả mọi nơi,
Không chấp trước, giải thoát,
Không sân hận một ai,
Ðược gọi là có hạnh.
536. Yo idha caraṇesu pattipatto,
Kusalo sabbadā ājānāti dhammaṃ;
Sabbattha na sajjati vimuttacitto,
Paṭighā yassa na santi caraṇavā so.

537. Ai không làm các nghiệp
Ðưa đến quả đau khổ
Phía trên và phía dưới,
Bề ngang và chặng giữa,
Sống với sự liễu tri,
Từ bỏ, không chấp nhận,
Man trá và kiêu mạn,
Tham ái và phẫn nộ,
Làm cho đến cùng tận,
Cả danh và cả sắc,
Vị này đã đạt được,
Tên gọi là du sĩ.
537. Dukkhavepakkaṃ yadatthi kammaṃ,
Uddhamadho tiriyaṃ vāpi majjhe;
Paribbājayitvā pariññacārī,
Māyaṃ mānamathopi lobhakodhaṃ;
Pariyantamakāsi nāmarūpaṃ,
Taṃ paribbājakamāhu pattipattan"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy; hoan hỷ, hân hoan, phấn chấn, hỷ duyệt sanh khởi, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, trước mặt Thế Tôn, thốt lên những câu kệ thích đáng:
Atha kho sabhiyo paribbājako bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā attamano pamudito udaggo pītisomanassajāto uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā bhagavantaṃ sammukhā sāruppāhi gāthāhi abhitthavi:

538. Ôi, bậc tuệ rộng lớn!
Nhiếp phục sự tụ họp,
Các Sa-môn tranh luận,
Có đến sáu (mươi) ba thuyết,
Các ngôn thuyết văn tự,
Y đây các tưởng khởi,
Vị ấy vượt qua được,
Dòng nước mạnh sanh tử.
538. "Yāni ca tīṇi yāni ca saṭṭhi,
Samaṇappavādasitāni bhūripañña;
Saññakkharasaññanissitāni,
Osaraṇāni vineyya oghatamagā.

539. Ngài đi đến tận cùng,
Ðến bờ kia đau khổ,
Bậc La-hán, Chánh Giác,
Con nghĩ Ngài lậu tận,
Ngài chói sáng, thông minh.
Với trí tuệ rộng lớn,
Ngài đoạn tận đau khổ,
Ðưa con qua bờ kia.
539. Antagūsi pāragū dukkhassa,
Arahāsi sammāsambuddho khīṇāsavaṃ taṃ maññe;
Jutimā mutimā pahūtapañño,
Dukkhassantakara atāresi maṃ.

540. Ngài thấy, Ngài biết rõ
Những điều con nghi ngờ,
Ngài giúp con vượt qua,
Con xin đảnh lễ Ngài,
Bậc ẩn sĩ đạt được,
Con đường thật an tịnh,
Ôi, bà con mặt trời!
Không hoang vu, nhu hòa.
540. Yaṃ me kaṅkhītamaññāsi,
Vicikicchā maṃ tārayi namo te;
Muni monapathesu pattipatta,
Akhila ādiccabandhu soratosi.

541. Ðiều xưa con nghi ngờ,
Ðều được Ngài giải đáp,
Ôi, bậc có Pháp nhân!
Ngài thật là ẩn sĩ
Bậc Chánh Ðẳng, Chánh Giác,
Ngài không còn triền cái.
541. Yā me kaṅkhā pure āsi,
Taṃ me byākāsi cakkhumā;
Addhā munīsi sambuddho,
Natthi nīvaraṇā tava.

542. Với Ngài, mọi ưu não,
Ðược phá tan, đoạn diệt,
Ngài tịnh tịch, chế ngự,
Tâm kiên trì, thành thực.
542. Upāyāsā ca te sabbe,
Viddhastā vinaḷīkatā;
Sītibhūto damappatto,
Dhitimā saccanikkamo.

543. Ngài là bậc long tượng,
Trong các hàng long tượng,
Ngài là đại anh hùng
Chư Thiên đều hoan hỷ,
Cả hai Nàrada,
Và cả Pabbatà,
Ðều hoan hỷ tín thọ,
Lời thuyết giảng của Ngài.
543. Tassa te nāganāgassa,
Mahāvīrassa bhāsato;
Sabbe devānumodanti,
Ubho nāradapabbatā.

544. Chúng con xin đảnh lễ,
Con người thuần thục nhất,
Chúng con xin đảnh lễ,
Con người tối thượng nhất,
Trong cảnh giới Trời, Người,
Không ai sánh được Ngài,
544. Namo te purisājañña,
Namo te purisuttama;
Sadevakasmiṃ lokasmiṃ,
Natthi te paṭipuggalo.

545. Ngài chính là Ðức Phật,
Ngài chính là Ðạo Sư,
Ngài là bậc ẩn sĩ,
Ðã chiến thắng Ác ma,
Ngài chặt đứt tuỳ miên,
Ðã vượt qua sanh tử,
Ngài giúp chúng sanh này,
Vượt qua bể sanh tử.
545. Tuvaṃ buddho tuvaṃ satthā,
Tuvaṃ mārābhibhū muni;
Tuvaṃ anusaye chetvā,
Tiṇṇo tāresi maṃ pajaṃ.

546. Ngài vượt khỏi sanh y,
Ngài phá tan lậu hoặc,
Ngài là bậc sư tử,
Không chấp thủ, chấp trước,
Mọi sợ hãi, hoảng hốt,
Ngài đoạn tận, trừ diệt.
546. Upadhī te samatikkantā,
Āsavā te padālitā;
Sīhosi anupādāno,
Pahīnabhayabheravo.

547. Như hoa sen tươi đẹp.
Nước không thể dính vào,
Cũng vậy cả thiện ác,
Cả hai không dính Ngài,
Ôi anh hùng vĩ đại,
Xin Ngài duỗi chân ra,
Sabhiya chúng con,
Ðảnh lễ bậc Ðạo Sư.
547. Puṇḍarīkaṃ yathā vaggu,
Toye na upalimpati;
Evaṃ puññe ca pāpe ca,
Ubhaye tvaṃ na limpasi;
Pāde vīra pasārehi,
Sabhiyo vandati satthuno"ti.

Rồi du sĩ Sabhiya lấy đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha kho sabhiyo paribbājako bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavantaṃ etadavoca:

- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!... Con xin quy y Thế Tôn, Pháp và chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.
"Abhikkantaṃ, bhante … pe … esāhaṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca; labheyyāhaṃ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṃ, labheyyaṃ upasampadan"ti.

- Này Sabhiya, ai trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này cần phải sống biệt trú trong bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng ở đây, Ta biết sự sai biệt giữa các chúng sanh.
"Yo kho, sabhiya, aññatitthiyapubbo imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajjaṃ, ākaṅkhati upasampadaṃ, so cattāro māse parivasati; catunnaṃ māsānaṃ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājenti, upasampādenti bhikkhubhāvāya. Api ca mettha puggalavemattatā viditā"ti.

- Bạch Thế Tôn, nếu những ai trước kia thuộc ngoại đạo, nay xin xuất gia, xin thọ đại giới trong Pháp Luật này, sống biệt trú bốn tháng. Sau bốn tháng, nếu tâm các Tỷ-kheo thỏa thuận, có thể cho vị ấy xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo, con sẽ sống biệt trú bốn năm. Sau bốn năm, nếu tâm con thỏa thuận hãy cho xuất gia, cho con thọ đại giới để trở thành Tỷ-kheo.
"Sace, bhante, aññatitthiyapubbā imasmiṃ dhammavinaye ākaṅkhantā pabbajjaṃ, ākaṅkhantā upasampadaṃ cattāro māse parivasanti, catunnaṃ māsānaṃ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājenti, upasampādenti bhikkhubhāvāya, ahaṃ cattāri vassāni parivasissāmi; catunnaṃ vassānaṃ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājentu upasampādentu bhikkhubhāvāyā"ti.

Du sĩ Sabhiya được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới... rồi Tôn giả Sabhiya trở thành một vị A-la-hán.
Alattha kho sabhiyo paribbājako bhagavato santike pabbajjaṃ alattha upasampadaṃ … pe … aññataro kho panāyasmā sabhiyo arahataṃ ahosīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt