Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Kinh Tập
Sutta Nipāta
Câu hỏi của thanh niên Mettagu
Mettagūmāṇavapucchā
Tôn Giả Mettagu:
(iccāyasmā mettagū):
1049. Con xin hỏi Thế Tôn,
Mong Thế Tôn trả lời,
Vấn đề con đã hỏi,
Con nghĩ Ngài hiền trí,
Tự ngã đã tu tập,
Từ đâu, ở trong đời,
Ðau khổ này khởi lên,
Với nhiều loại như vậy?
1049. "Pucchāmi taṃ bhagavā brūhi me taṃ,
Maññāmi taṃ vedaguṃ bhāvitattaṃ;
Kuto nu dukkhā samudāgatā ime,
Ye keci lokasmimanekarūpā".
Thế Tôn đáp Mettagu:
(mettagūti bhagavā):
1050. Ông hỏi ta vấn đề,
Sanh khởi của khổ đau,
Ta sẽ nói cho Ông,
Như Ta đã được biết,
Chính do duyên sanh y,
Nên khổ được khởi lên,
Với nhiều loại như vậy,
Khác biệt ở trong đời.
1050. "Dukkhassa ve maṃ pabhavaṃ apucchasi,
Taṃ te pavakkhāmi yathā pajānaṃ;
Upadhinidānā pabhavanti dukkhā,
Ye keci lokasmimanekarūpā.
1051. Những ai vì vô minh,
Tác thành các sanh y,
Kẻ ngu tạo đau khổ,
Tiếp tục được sanh khởi,
Do vậy kẻ hiểu biết,
Không nên tạo sanh y,
Vì thấy sự sanh khởi,
Của sanh và đau khổ.
1051. Yo ve avidvā upadhiṃ karoti,
Punappunaṃ dukkhamupeti mando;
Tasmā pajānaṃ upadhiṃ na kayirā,
Dukkhassa jātippabhavānupassī".
Tôn Giả Mettagu:
(iccāyasmā mettagū):
1052. Ðiều chúng con đã hỏi,
Ngài đã đáp chúng rồi,
Nay xin hỏi câu khác,
Mong Ngài giải đáp cho,
Thế nào bậc Hiền trí,
Vượt khỏi dòng nước mạnh,
Vượt khỏi sanh và già,
Cùng sầu muộn than khóc,
Mong rằng bậc ẩn sĩ,
Hãy khéo trả lời con,
Ðúng như Ngài đã biết,
Pháp nhĩ là như vậy?
1052. "Yaṃ taṃ apucchimha akittayī no,
Aññaṃ taṃ pucchāma tadiṅgha brūhi;
Kathaṃ nu dhīrā vitaranti oghaṃ,
Jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca;
Taṃ me muni sādhu viyākarohi,
Tathā hi te vidito esa dhammo".
Thế Tôn:
(mettagūti bhagavā):
1053. Ta sẽ nói cho Ông,
Pháp thiết thực hiện tại,
Không do trao truyền lại,
Sau khi biết pháp ấy,
Vị ấy sống chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
1053. "Kittayissāmi te dhammaṃ,
Diṭṭhe dhamme anītihaṃ;
Yaṃ viditvā sato caraṃ,
Tare loke visattikaṃ".
Tôn Giả Mettagu:
(iccāyasmā mettagū):
1054. Thưa bậc Ðại ẩn sĩ,
Con hết sức hoan hỷ,
Chánh pháp vô thượng ấy,
Sau khi biết pháp ấy,
Sống gìn giữ chánh niệm,
Vượt tham ái ở đời.
1054. "Tañcāhaṃ abhinandāmi,
mahesi dhammamuttamaṃ;
Yaṃ viditvā sato caraṃ,
tare loke visattikaṃ".
Thế Tôn:
(mettagūti bhagavā):
1055. Phàm Ông rõ biết gì,
Trên dưới, ngang ở giữa,
Hãy từ bỏ hoan hỷ,
Hãy từ bỏ trú xứ,
Chớ để cho ý thức,
An trú trên sanh hữu.
1055. "Yaṃ kiñci sampajānāsi,
Uddhaṃ adho tiriyañcāpi majjhe;
Etesu nandiñca nivesanañca,
Panujja viññāṇaṃ bhave na tiṭṭhe.
1056. An trú vậy, chánh niệm,
Tỷ-kheo không phóng dật,
Sau khi bỏ sở hành,
Ðưa đến ngã, sở hữu.
Ðối với sanh và già,
Sầu muộn và than khóc,
Ở đây, biết được vậy,
Hãy từ bỏ đau khổ.
1056. Evaṃvihārī sato appamatto,
Bhikkhu caraṃ hitvā mamāyitāni;
Jātiṃ jaraṃ sokapariddavañca,
Idheva vidvā pajaheyya dukkhaṃ".
Tôn Giả Mettagu:
(iccāyasmā mettagū):
1057. Con cảm thấy hoan hỉ,
Lời nói bậc Ðại sĩ;
Ðoạn tận được sanh y,
Ðược Ngài khéo tuyên thuyết.
Chắc chắn đức Thế Tôn,
Ðã đoạn tận đau khổ,
Vì pháp này được Ngài,
Rõ biết là như vậy.
1057. "Etābhinandāmi vaco mahesino,
Sukittitaṃ gotamanūpadhīkaṃ;
Addhā hi bhagavā pahāsi dukkhaṃ,
Tathā hi te vidito esa dhammo.
1058. Những vị ấy hãy đoạn,
Hãy từ bỏ đau khổ,
Những người ấy được Ngài
Thường thường dạy, giáo hóa.
Con xin đảnh lễ Ngài,
Hãy đến, bậc Long tượng,
Mong Thế Tôn thường hằng,
Giáo hóa dạy dỗ con.
1058. Te cāpi nūnappajaheyyu dukkhaṃ,
Ye tvaṃ muni aṭṭhitaṃ ovadeyya;
Taṃ taṃ namassāmi samecca nāga,
Appeva maṃ bhagavā aṭṭhitaṃ ovadeyya".
Thế Tôn:
(mettagūti bhagavā):
1059. Vị Bà-la-môn nào,
Ðược thắng tri, có trí,
Không có sở hữu gì,
Không ái luyến dục hữu,
Chắc chắn vị như vậy,
Vượt qua bộc lưu này,
Ðã đến được bờ kia,
Không cứng cỏi không nghỉ.
1059. "Yaṃ brāhmaṇaṃ vedagumābhijaññā,
Akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ;
Addhā hi so oghamimaṃ atāri,
Tiṇṇo ca pāraṃ akhilo akaṅkho.
1060. Người ấy sau khi biết,
Thông suốt được Thánh điển,
Không dính ái triền này,
Về hữu và phi hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Không phiền lụy không cầu,
Ta nói rằng vị ấy,
Ðã vượt khỏi sanh già.
1060. Vidvā ca yo vedagū naro idha,
Bhavābhave saṅgamimaṃ visajja;
So vītataṇho anīgho nirāso,
Atāri so jātijaranti brūmī"ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt