Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya
Trưởng Lão Tăng Kệ
Theragāthā
Trưởng Lão Sunita
Sunītattheragāthā
620. Ta sanh nhà hạ tiện,
Nghèo khổ không đủ ăn,
Nghề ta rất hèn hạ,
Ta kẻ quét hoa rơi.
620. "Nīce kulamhi jātohaṃ,
daliddo appabhojano;
Hīnakammaṃ mamaṃ āsi,
ahosiṃ pupphachaḍḍako.
621. Ta bị người nhàm chán,
Miệt thị và khinh bỉ,
Hạ mình xuống thật thấp,
Ta kính lễ quần chúng.
621. Jigucchito manussānaṃ,
paribhūto ca vambhito;
Nīcaṃ manaṃ karitvāna,
vandissaṃ bahukaṃ janaṃ.
622. Rồi ta thấy đức Phật,
Thượng thủ chúng Tỷ-kheo,
Bậc Ðại Hùng vào thành,
Magadha tối thượng.
622. Athaddasāsiṃ sambuddhaṃ,
bhikkhusaṃghapurakkhataṃ;
Pavisantaṃ mahāvīraṃ,
magadhānaṃ puruttamaṃ.
623. Ta quăng bỏ đòn gánh,
Ðến gần để đảnh lễ,
Với lòng thương xót ta,
Bậc Thượng nhân đứng lại.
623. Nikkhipitvāna byābhaṅgiṃ,
vandituṃ upasaṅkamiṃ;
Mameva anukampāya,
aṭṭhāsi purisuttamo.
624. Lễ chân Ðạo Sư xong,
Ta đứng liền một bên,
Ta xin được xuất gia,
Bậc tối thượng mọi loài.
624. Vanditvā satthuno pāde,
ekamantaṃ ṭhito tadā;
Pabbajjaṃ ahamāyāciṃ,
sabbasattānamuttamaṃ.
625. Bậc Ðạo Sư từ bi,
Từ mẫn khắp thế giới,
Nói: 'Hãy đến Tỷ-kheo',
Ðại giới, ta thọ vậy.
625. Tato kāruṇiko satthā,
sabbalokānukampako;
‘Ehi bhikkhū’ti maṃ āha,
sā me āsūpasampadā.
626. Rồi ta sống trong rừng,
Một mình không biếng nhác,
Ta theo lời Ðạo Sư,
Như bậc chiến thắng dạy.
626. Sohaṃ eko araññasmiṃ,
viharanto atandito;
Akāsiṃ satthu vacanaṃ,
yathā maṃ ovadī jino.
627. Trong đêm canh thứ nhất,
Ta nhớ các đời trước,
Trong đêm canh chặng giữa,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,
Trong đêm canh cuối cùng,
Ta phá khối si ám.
627. Rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ,
Pubbajātimanussariṃ;
Rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ,
Dibbacakkhuṃ visodhayiṃ;
Rattiyā pacchime yāme,
Tamokhandhaṃ padālayiṃ.
628. Khi đêm vừa mở rộng,
Rạng đông, trời ló rạng,
Ðế Thích, Phạm Thiên đến,
Chấp tay đảnh lễ ta,
628. Tato ratyā vivasāne,
sūriyassuggamanaṃ pati;
Indo brahmā ca āgantvā,
maṃ namassiṃsu pañjalī.
629. Ðảnh lễ bậc Thượng sanh!
Ðảnh lễ bậc Thượng nhân!
Ngài đoạn tận lậu hoặc,
Ngài xứng đáng cúng dường.
629. ‘Namo te purisājañña,
namo te purisuttama;
Yassa te āsavā khīṇā,
dakkhiṇeyyosi mārisa’.
630. Bậc Ðạo Sư thấy ta,
Ðứng đầu chúng chư Thiên,
Nở ra một nụ cười,
Nói với ta nghĩa này.
630. Tato disvāna maṃ satthā,
devasaṅghapurakkhataṃ;
Sitaṃ pātukaritvāna,
imamatthaṃ abhāsatha.
631. Nhờ khổ hạnh, Phạm hạnh,
Nhờ tự chế, điều phục,
Nhờ vậy, là Phạm chí,
Ðây, Phạm chí tối thượng.
631. ‘Tapena brahmacariyena,
saṃyamena damena ca;
Etena brāhmaṇo hoti,
etaṃ brāhmaṇamuttaman’"ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt